Friday, April 20, 2007

Emptiness Gate...


Cửa Không Chùa Thạch Nam

Sau cánh cổng Chùa Thạch Nam khách hành hương không thấy chùa đâu cả mà chỉ thấy một con đường thơ mộng tít tắp như vô tận. Sương sớm giăng giăng phủ mờ làm cho cây cỏ mỏng mảnh hơn, thon thả hơn, gây nên một cảm giác mơ hồ như đưa khách vào một cõi hư thực thực hư huyển ảo. Cánh cổng chùa bổng có vẽ bơ vơ nhỏ nhắn so với khoảng không gian như vô tận bên trong...

Cửa chùa là cửa không như các thiền giả và tao nhân mặc khách thường nói. Không ở đây luôn mang ý nghĩa triết học sắc sắc không không chứ chưa bao giờ lại mang nghĩa là không có chùa, không có gì. Chữ Không của các thiền giả phải là chơn không diệu hữu và đập vào đôi mắt của khách hành hương phải là diệu hữu chớ không thể là chơn không. Đối với khách hành hương diệu hữu là bắt buộc phải có, nhất thiết phải có còn chơn không thì có hay không gì cũng được. Chơn không nặng về tư duy trừu tượng của bộ nảo suy tư còn diệu hữu thì cụ thể dành cho đôi mắt ngắm nhìn. Còn đạo lý giải thoát là cái xa mà gần, gần mà xa, khó mà suy lường hơn nữa, có khi người ta nói giải thoát ở tại lòng người:

Đời rộng hẹp đạo bao la
Đạo đời một cõi gần xa tại lòng

Đạo đời có thể lập ngôn như vậy còn có không thì sao? Có không phải quấn quýt hòa nhập với nhau mới có thể gọi là chơn không diệu hữu độc đáo của nhà Phật. Nhìn vào nhà Phật ở đây người ta thấy chơn không thật rõ nét mà diệu hữu của ngôi chùa đâu mất rồi...

Sau cánh cổng chùa dù chơn không đến mức độ nào cũng nên thấp thoáng một công trình cho con mắt thế nhân, chẳng hạn như một quả cầu đá đầy ấn tượng và đạt kỷ lục ở Chùa Lân, một tượng di lặc lộ thiên với nụ cười đón khách, một thủy đình giúp khách phương xa lắng lòng khi nhìn mặt nước hồ sen, hay một hạng mục kiến trúc nào đó; khách phương xa cố nhìn cũng không thấy. Cây cỏ không đủ độ rậm rạp để che kín tầm mắt thích thưởng lãm của người khách, cũng không có cái bức bình phong kiểu nhà ở Huế để ‘bình’ con mắt ham nhìn của thế nhân, càng không có một hòn giả sơn hay một con dốc tự nhiên nào cả. Thế mà người khách hành hương không thấy có cái gì sau cánh cổng để có thể gọi là chùa.

Cảnh trí không thể gọi là đẹp vì chẳng có gì cụ thể đập vào đôi mắt hay phân biệt đẹp xấu của người khách, cũng không thể gọi là xấu vì người khách có thấy gì đâu ngoài cây cỏ hồn nhiên đong đưa trong làn gió nhẹ hẩng và màn sương mơ hồ như có như không. Rõ ràng đôi mắt thế nhân là đôi mắt dự cảm, dự kiến một cái gì đó, thế mà ở đây không có một cái gì sau cửa cổng với biển báo hiệu rằng có một cái chùa tên là Thạch Nam. Ngay cả chữ thạch nam cũng không nghe hơi hướm cửa thiền. Những nghĩa thông thường của thạch nam như ở miền Nam có đá hay đá ở miền Nam không gây cho người ta một liên tưởng gì về cửa chùa; ngược lại nó khiến cho người ta liên tưởng đến một cửa hiệu bán đá, hay tên của một người đàn ông nào đó. Tính cách hay dự kiến, hay mặc định của thế nhân một phen bị hụt hẩng. Một thiền sư đạt đạo thường không bị hội chứng ‘ngũ dự’ gồm dự cảm, dự tưởng, dự kiến và nặng nhất là dự tính mà thế nhân thường mắc phải. Chính tính cái tính cách hay dự cảm của thế nhân kết hợp một cách đối nghịch với tình trạng hầu như không có gì sau cánh cổng khiến cho cõi không ở đây càng ‘không’ một cách đột ngột đến mức ngẩn ngơ. Cõi không càng trở nên ‘không’ hơn nữa.

Nếu trời quang đãng không một áng mây, tuy không có gì người ta vẫn chỉ cảm thấy bình thường, một cái ‘không’ bình thường. Cũng vậy, nếu không có cái biển Chùa Nam Sơn thì cảm giác về cái không của khách hành hương cũng bình thường mà thôi; chẳng có gì hụt hẩng đến độ lay lắc tâm hồn. Cánh cổng báo có chùa mà không thấy chùa đã đẩy cảm giác ‘không’ lên đến độ ngẩn người. Cảm giác ‘không’ trở nên tràn ngập và bức bách. Cái tánh ham nhìn của đôi mắt thế nhân bị bức bách, nẩy bật lên tiếng giục giả: “Chùa đâu? Sao không thấy?”. Câu hỏi “Chùa đâu? Sao không thấy?” không nhận được tiếng trả lời nào. Gió nhẹ quá không đủ gây lên tiếng xào xạt của lá cây để có thể gọi là một cách trả lời mơ hồ nào đó. Cây cỏ mõng mảnh, con đường không hoa kiểng, không có gì dàn bày chưng dọn hai bên mà chỉ có lớp lá rơi phủ nhẹ trên mặt đất một cách tựn, tự nhiên đến đỗi không gợi lên được sự hiện hữu của một bàn tay chăm sóc nào cả, dù là bàn tay nhỏ nhắn của vị ni cô tri viên, để gọi là cách trả lời cụ thể hơn. “Chùa đâu? Sao không thấy?” câu hỏi bổng dội ngược vào trong tâm thức, một tâm thức luôn luôn có khuynh hướng chực chờ một ‘cái có’ nào đó. Hốt nhiên, tâm thức bừng tỉnh, nhận ra cái cố tật chực chờ của nó. Nhận ra được cái cố tật chực chờ nhìn một cái gì đó, nghe một cái gì đó, ngửi... nếm... sờ mó một cái gì đó, suy nghĩ một cái gì đó, nhận ra được cái cố tật đã dẫn dắt mình thăng trầm qua muôn đời sinh tử, người khách mĩm cười thầm nhủ: Tại sao không thể không có gì cả! Cái không này chính là chơn không mà cũng là diệu hữu khi không còn những thứ dự tưởng, dự kiến, dự cảm... chen vào. Chợt nhận ra mình, người khách mỉm cười chấp tay cảm ơn cái không có gì sau cánh cổng của Chùa Thạch Nam, Hàn Quốc.
Thể Như
Nam Hàn, Mạnh Xuân Đinh Hợi
(Feb13,2007)

Wednesday, April 11, 2007

NI SU THICH NU NHON LIEN


Đôi dòng tưởng niệm
.
Ni Sư Nhơn Liên hồi còn trong cõi tục đã thể hiện hình ảnh của một người phụ nữ Việt Nam với những đức tính thuần hòa, hiếu nghĩa, nhân hậu, đảm đang. Khi cắt ái li gia, theo hạnh của bậc xuất trần thượng sĩ, dù du phương hành đạo hay trụ xứ hành trì, Ni Sư đều thể hiện những nét đẹp của bậc chân tu đạo hạnh, để lại cho hàng hậu tấn một tấm gương mẩu mực, thật gần gũi mà vẫn thanh cao trong sáng.

Hiện hữu chín mươi ba năm: Năm mươi hai năm sống hòa điệu với thế nhân, bốn mươi mốt năm dấn thân cõi đạo với ba mươi ba hạ lạp. Ni Sư đã đền đáp ân tình, hiếu nghĩa, lo tròn bổn phận thế gian; chuyên cần tiến tu giải thoát, tiếp độ hữu duyên, viên thành đạo nghiệp; là một điểm son trong ngôi nhà Khất Sĩ, góp phần trang nghiêm Phật Giáo Việt Nam, cúng dường mười phương Tam Bảo.