Friday, August 22, 2025

Friday, February 25, 2011

Khai Ngộ là Mục Tiêu

Remember, our purpose is not to make more Buddhists, it is to make more enlightened beings. When you teach Buddhism, don’t encourage people to become Buddhists; just encourage the qualities of love, compassion, universal responsibility and wisdom within themselves. --- Dalai Lama


Hãy nhớ rằng mục đích của chúng ta không phải là kiếm thêm Phật tử mà là làm cho người ta thêm sáng suốt. Khi hoằng pháp, không nên kêu gọi mọi người hãy trở thành tín đồ của Phật Giáo mà chỉ nên kêu gọi mọi người hãy rèn luyện cho mình những đức tính yêu thương, từ ái, có tinh thần trách nhiệm đối với cái chung và trí tuệ.

Hoằng pháp không phải tìm cầu

Có thêm Phật tử ngõ hầu xiển dương...

Hoằng pháp là mở con đường

Cho lòng nhân ái, yêu thương muôn loài

Cho trí tuệ được mở khai

Hòa bình thế giới, chung vai góp phần.

Tuesday, February 19, 2008

Mach nho tuy duyen...

MẠCH NHỎ TUỲ DUYÊN XUÔI VỀ SÔNG LỚN BẤT BIẾN
Thích Minh Thành Ph.D.

Theo một cách thống kê chính thức thì 7.5 triệu người trong gần một tỷ dân của nước Ấn Độ là Phật tử, tương đương với 0.8% dân số. Thật ra đó chỉ là cách tính số học, không gợi lên được sắc màu sinh động của Phật giáo Ấn Độ ngày nay. Những trọng điểm như Bồ đề đạo tràng, vườn Lộc Uyển đều mang đậm đà màu sắc Phật giáo và đã trở thành những bộ sưu tập phong phú nhất, có hầu hết những sắc thái Phật giáo lớn: Nguyên thủy Phật giáo từ Thái Lan, Miến Điện, Tích Lan; Thiền tông từ Nhật Bản, Trung Quốc, Triều Tiên; Kim cang thừa từ Tây Tạng, Nepal, Bhutan; chưa kể những ngôi chùa có nguồn gốc từ Việt Nam. Về phương diện sinh hoạt tín ngưỡng, Phật Giáo ở những trung tâm này cũng muôn màu muôn vẻ từ một lễ cầu an tại tư gia đơn giản nhất do những nhà sư Phật giáo Nguyên thủy cử hành đến những đại trai đàn ban truyền pháp Quán Đảnh hay pháp Thời Luân Kalacakra hoành tráng và quy mô do những vị đại Lạt ma từ Tây Tạng tổ chức và chủ lễ.
.
Trần Nam có lần rời khỏi những trọng điểm Phật giáo mang tính cách quốc tế, đa văn hóa như vậy và tình cờ ghé lại một ngôi chùa nhỏ ở làng quê Ấn Độ vào một buổi chiều cuối hạ. Mặt trời vừa buông hết những tia nắng sau cùng thì những người Phật tử lần lượt về chùa tụng kinh. Chùa quê ở đâu cũng có những nét thoang thoáng giống nhau, lặng lẽ và khoáng đãng. Vị sư trụ trì vui vẻ chào đón và sắp xếp ổn định cho mọi người. Nhìn lại trang sử quá khứ, Trần Nam cảm thấy nao lòng: Những người Phật tử mộc mạc chân chất ở đây đã tồn tại như vậy tự bao giờ. Họ đã phải như thế nào để có thể vượt qua được biết bao nhiêu cuộc chiến hủy diệt của những đoàn quân ngoại giáo từ nhiều trăm năm về trước. Họ đã phải trải qua biết bao nhiêu cuộc biến thiên thăng trầm thay ngôi đổi chủ từ triều đại này đến triều đại khác, chế độ này đến chế độ khác. Giửa thế cuộc tai ương nghiệt ngã như vậy, đủ sức tồn tại đã là chuyện đáng nghiêng mình kính cẩn. Nhưng dẫu sao cũng phải thấy những cái có thể tạm xem là chệch choạc trong cách thờ cúng nơi đây, và rất có thể là ở nhiều nơi khác nữa.
.
Nếu quan sát với cái nhìn ‘thước đo chuẩn mực’ thì Phật giáo Ấn Độ, cụ thể là ngôi chùa này, không còn thuần túy nữa mà là một dạng xen tạp từ hình thức thờ phụng đến nội dung nghi lễ. Về thờ phụng thì chung quanh Đức Phật là các vị thần nam, thần nữ có nguồn gốc từ các tôn giáo khác, hay từ tín ngưỡng dân gian địa phương. Về nghi lễ thì ngoài các nghi lễ tôn giáo như lễ vía, lễ Phật đản lại có lễ dành cho bé sơ sinh, lễ thôi nôi, lễ cầu an, lễ cúng ông bà tổ tiên, có cả lễ cưới và dĩ nhiên là phải có lễ tang. Các tôn giáo bạn có nghi lễ gì thì hầu như những nhà sư làng quê này phải chế tác ra một dạng nghi lễ mang nội dung ý nghĩa tương tự để phục vụ nhu cầu tế lễ của bổn đạo. Như vậy, với cái nhìn chuẩn mực thuần chất thì Phật giáo Ấn độ không còn thuần chất nữa ít nhất là ở ngôi chùa làng quê này. Nhưng thử đặt vấn đề ngược lại, về phương diện thờ cúng và nghi lễ đâu là chuẩn mực thuần chất Phật giáo?
.
Nhìn lại lịch sử từ thời Phật thì Trần Nam thấy rằng Đức Phật đã đưa vào giáo lý của mình rất nhiều yếu tố của hệ thống thần thánh có trước như Phạm thiên, Đế thích... đã sử dụng rất nhiều khái niệm có trước như Nghiệp, Luân hồi, Tái sinh... Nếu lọc tất cả những cái gọi là ngoại lai ra khỏi đạo Phật, khó có thể hình dung rằng đạo Phật sẽ như thế nào. Thật ra, đạo Phật ít ra về phương diện tổ chức và hành hoạt cũng là một pháp do nhân duyên mà sinh ra. Mà đã là pháp do nhân duyên thì làm gì có tự thể, có cái gọi là chuẩn mực thuần chất một cách cứng nhắc. Nhìn chung chúng ta lại thấy sau khi một tôn giáo được thành lập rồi trải qua một thời gian thì tính chất chế biến trong tôn giáo ấy phát triển. Nhìn kỹ hơn thì ngay cả tại thời điểm thành lập thì bất cứ một tôn giáo nào cũng đều có ít nhiều thuộc tính chế biến rồi. Thuộc tính chế biến mạnh mẽ và phổ thông đến độ chúng ta có cảm giác đó là một thuộc tính bắt buộc. Theo Trần Nam, chế biến một cách thích hợp và sáng tạo lại chính là sức sống động, độ linh hoạt, không thể không có của bất kỳ một tổ chức tôn giáo hay không tôn giáo nào. Chùa tháp và việc thờ cúng ở Trung Quốc, Nhật Bản hay Việt Nam khác hẳn chùa tháp ở Ấn Độ là vậy. Ngay tại Ấn Độ chùa tháp mỗi vùng lại cũng lại có độ biến hóa khác nhau tùy theo sức lao động sáng tạo của người xây dựng và tùy theo hoàn cảnh cụ thể.
.
Người Phật tử làng quê Ấn Độ, trong tình thế phải sống trong, sống với, và sống giao thoa hằng ngày với bầu không khí văn hóa, tín ngưỡng mang phong cách Bà la môn đậm đặc thì việc chế biến hay pha tạp là chuyện đương nhiên. Cụ thể trong ngôi chùa mà Trần Nam thăm viếng, ngoài pho tượng Đức Phật và Bồ tát Quán Thế Âm mang màu sắc thần bí là những biểu tượng, thậm chí là những tượng thần thuộc hệ thống thần thánh Bà la môn. Một nhà sư xét nét và kỷ tính khó có thể chấp nhận những điện đường tháp miếu của Phật giáo lại chứa biểu tượng linga của thần Shiva thuộc Bà la môn. Một nhà sư ưa thích tính chuẩn mực có lẽ sẽ cau mặt khi thấy Bồ tát Quán Thế Âm trong ngôi chùa của Phật giáo Ấn Độ có dáng vấp và trang phục của thần Visnu, một vị thần Bà la môn tham gia vào quá trình tạo thiên lập địa, quá trình sáng tạo ra thế giới. Vị Quán Thế Âm Bồ tát mang thân tướng của thần Visnu này không ngự trên núi Phổ đà kiểu Trung Quốc hay ở động Hương Tích kiểu Việt Nam mà ngự trên quả núi Garuda của thần Visnu Ấn Độ. Nhưng nếu lạc quan và có cái nhìn thông thoáng cở trình độ ‘ngũ thập nghe thuận tai’ thì người ta có thể mĩm cười cho rằng: ‘Bồ tát quả oai linh, thiên biến vạn hóa, có lẽ còn nhiều hơn 36 thân tướng như đã được liệt kê trong kinh Pháp Hoa Phẩm Phổ môn’.
.
Sư trụ trì và Trần Nam đi dọc theo bờ sông Saraswati, gió sông thổi lên mát rượi làm cả hai tỉnh táo. Trần Nam được dịp đem chuyện thờ cúng, chuyện thần thánh trong chùa ra hỏi và giật mình trước nhận thức vững chắc của vị sư trụ trì: Ở Ấn Độ vị chủ làng Bà la môn như một ông vua nho nhỏ, huống gì cả một hệ thống chính trị xã hội Bà la môn. Họ thờ thần gì thì mình thờ thần ấy để họ không xem mình là đối thủ và có mâu thuẩn đối kháng. Hơn nữa mình vẫn xếp thần thánh Bà la môn theo thứ bậc của Bồ tát trong đó Đức Phật vẫn là đấng tối tôn, bậc giác ngộ hoàn toàn. Chức sắc Bà la môn đã muốn sát nhập Phật giáo bằng cách xem đạo Phật là một chi phái của họ. Bi quan thì thấy như vậy là khó chịu nhưng nếu lạc quan thì rõ ràng là nhờ vậy Phật giáo chúng ta tuy ít nhưng không bị loại trừ, đồng thời lại tiếp xúc như người cùng một nhà với số lượng lớn tín đồ Bà la môn, trong đó có không ít người mến chuộng đạo lý nhà Phật....
.
Trần Nam thầm nhủ việc thờ cúng xen tạp chỉ là dấu vết của thời kỳ Phật giáo bị tôn giáo bạn o ép thậm chí là ngược đãi nên trong một giai đoạn lịch sử nhất định Phật giáo phải ẩn mình, còn thời đại ngày nay... Có cảm giác không đồng tình cách thờ cúng từ hồi chiều nên Trần Nam cố tranh luận: Có dẹp được không? Tại sao lại nhất thiết phải thờ? Vị sư làng quê ôn tồn nói tiếp: Nếu không thờ thì nhà chùa và nhóm Phật tử nhỏ trong làng sẽ trở thành ‘người xa lạ’, trở thành một nhóm thiểu số bị cô lập, đồng thời tự mình cách ly với đông đảo tín đồ Bà la môn. Ngược lại, nhờ thờ như vậy mà tín đồ Bà la môn cũng đến chùa lễ bái thánh thần, qua đó mình mới có dịp tiếp xúc và khai ngộ cho những người có duyên lành với đạo lý nhà Phật.
.
Nghe vị sư làng quê lý giải, vừa đi Trần Nam vừa thấy rằng sự chế biến trong việc thờ cúng như vậy là một nhu cầu phát xuất từ thực tế cuộc sống. Kiến thức về tôn giáo học của Trần Nam không giúp gì cho việc xác định dạng hợp thể tín ngưỡng nơi ngôi chùa này với ba dạng hợp thể mà những nhà nghiên cứu tôn giáo nêu lên: (1) Tùy tiện hợp thể: kết hợp những yếu tố có trước mắt và trong tầm tay mà không hề có bất cứ một đắn đo nào hay một ý tứ nào cả về tính hài hòa hay tính tương thích; (2) Hổn dung hợp thể: kết hợp những yếu tố có nguồn gốc khác nhau theo một cách thức để chúng có mức độ hài hòa với nhau; và (3) Quy hệ hợp thể: kết hợp những yếu tố khác nhau vào trong một khung sườn đã định dạng từ trước hay một hệ thống có sẳn. Người viết chỉ thấy rằng sự kết hợp thờ cúng ở đây là một phương tiện diệu dụng vừa là cách để phòng vệ, bảo đảm sự an ổn cho mình vừa là kênh giao lưu, là cầu nối để gắn kết Phật giáo với cộng đồng tín đồ Bà la môn rộng lớn chung quanh, thực hiện chức năng phổ độ chúng sinh của nhà chùa.
.
Nhà sư làng quê có vẻ cảm khái nói tiếp: đạo Phật Ấn Độ gần đây đã âm thầm phát triển từ những mạch ngầm nho nhỏ khiêm tốn như vậy nhưng lâu lâu nhiều những mạch nhỏ này gom tụ lại tạo thành những đợt chuyển biến lớn, trong đó có những lễ quy y đại trà cho nhiều ngàn người được tổ chức ở Thủ Đô Tân Đề Li và một số nơi khác mà báo đài thường đưa tin. Cụ thể 100 ngàn người vào năm 2004, trước đó là 60 ngàn người năm 2003 và 50 ngàn người năm 2001. Những lần quy y tập thể như vậy, những người có nguyện vọng quy y rải rác từ khắp các nơi hội tụ lại hòa nhập vào nhau, tạo thành những sức mạnh kỳ diệu. Có thể hình dung như bất chợt ngay một khoảng khắc thời gian những mạch ngầm nhất tề tuôn mạnh về nhập vào dòng sông lớn Phật giáo. Trong những dịp đó, ngôi chùa này đã huy động được trên 300 lượt người về quy y tập trung với khoảng 500 lượt Phật tử đi theo cổ vũ và góp phần làm cho trí tuệ và lòng từ ái của Phật giáo thấm nhuần lan tỏa hơn nữa vào đời sống của người dân Ấn Độ.
.
Những ngôi sao đã long lanh trên bầu trời và phản chiếu xuống dòng sông Saraswati, nhuộm vàng những đợt sóng nhỏ lăn tăn, vị sư và Trần Nam thong thả tản bộ quay về ngôi chùa ấm áp cuối thôn.

Wednesday, August 29, 2007

Vu lan, chu Hieu va...

.
VU LAN, CHỮ HIẾU VÀ TẤM LÒNG RỘNG MỞ
bài giảng Vu lan 2007, Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Hằng năm cứ mỗi độ thu về thì tấm lòng của những người con Việt Nam nhất là những người con Phật chúng ta lại hân hoan đón mừng lễ hội Vu lan cúng dường lên mười phương Tam Bảo. Đây là một truyền thống quý báu của những người con hiền hiếu từ ngàn xưa, của những con hiền hiếu chúng ta hiện nay và mãi mãi về sau.
.
Mẹ ơi một kiếp bôn ba
Sớm hôm dầu dãi, ngày qua lại ngày
Mẹ vui áo vá, vai gầy
Cho con gấm lụa, trang đài nét xinh.
.
Một đời mẹ chẳng trau tria
Nếp nhà mẹ giữ sớm khuya tảo tần
Tương rau đạm bạc thanh bần
Hiền lương đôn hậu nghĩa nhân một đời
.
Kính thưa quý vị,
Bài pháp thoại hôm nay được chia là 3 phần như sau: (1) Câu chuyện Mục Liên cứu mẹ; (2) Tình mẫu tử thiêng liêng và đạo làm con; (3) Chữ hiếu mở rộng.
.
1. Câu chuyện Mục Liên:
Trước hết chúng tôi xin trình bày khái lược về câu chuyện Mục Liên, khơi nguồn cho lễ hội Vu Lan theo truyền thống Phật giáo Việt Nam. Lễ Vu lan có cội nguồn từ tích truyện Mục Liên tầm mẹ: Mục Liên là một nhà sư thời xưa đã tu hành đúng theo chánh pháp và chứng thành đạo quả, có đủ sáu phép thần thông, có đủ oai lực và đạo hạnh của một vị A la hán. Nhưng ngay khi chứng thành đạo quả thì Mục Liên chợt nhớ đến người mẹ của mình. Vì nhớ mẹ, thương mẹ, muốn đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục nên Mục Liên bèn sử dụng phép thần thông bay đi tìm kiếm khắp nơi. Ngài đã bay đi tìm mẹ, Ngài đã bay lên các cõi trời trên cao, đã bay lên các cõi trời cao hơn nữa. Ngài đã bay lên đến cõi trời cao nhất nhưng vẫn không tìm thấy người mẹ. Ngài bèn bay về cõi nhân gian tìm mẹ khắp năm châu bốn biển, Ngài vẫn không tìm được mẹ. Ngài không thấy người mẹ ở cõi nhân gian, Ngài không thấy người mẹ ở đâu cả.
.
Hết ngày này sang ngày khác kiếm mẹ mà không thấy, Mục Liên thất vọng quá, buồn quá. Mục Liên không dám nghĩ tới chuyện không lành nhưng Ngài phải đành ngậm ngùi đi xuống cõi u minh để tìm mẹ. Mục Liên lần dò tìm xuống cõi u minh. Như chúng ta đã biết con đường đi xuống u minh thật là lạnh lẽo và u ám. Mục Liên lần dò từng bước, thỉnh thoảng cất tiếng gọi: “Mẹ ơi! con đi tìm mẹ đây” (2), “Mẹ ơi!, Mẹ ở đâu?” (2). Rồi Mục Liên gặp mẹ trong tình cảnh thật não lòng, mẹ Ngài là một tội nhân trong địa ngục, là hiện thân của một con quỷ. Đói khát hành hạ, nóng bức dày dò. Thấy vậy Ngài dâng bát cơm cho mẹ được đở lòng:
.
Mắt đượm ưu sầu lòng hiếu thảo
Tay ôm bình bát đựng cơm thiền
Xuống cõi A tỳ xin viếng mẹ
Mẹ ơi! Con mẹ Mục Kiền Liên
.
Ngày xưa khi còn sống trên dương thế, người mẹ đã xan tham hẹp hòi nên khi chết rồi mẹ đã phải bị đọa xuống cõi địa ngục u đồ, hiện thân làm một con quỷ đói khát. Và, than ôi, giờ đây người mẹ lại tiếp tục xan tham hẹp hòi, lấy tay che chén cơm, khiến cho chén cơm hóa thành than lửa. Thấy chén cơm đã hóa thành ngọn lửa, Mục Liên chua xót, ngẩn ngơ..
.
Chua xót căn nguyên đường ngạ quỷ
Ngẩn ngơ hình phạt chốn u minh
Bát cơm dâng mẹ nhìn tha thiết
Hóa lửa than ôi thảm sự tình.
.
Mục Liên phải trở về kể lại sự tình đau lòng đó cho Phật nghe. Nghe xong, đức Phật bèn chỉ bày phương pháp báu hiếu nhiệm mầu. Phương pháp nhiệm mầu đó là cúng dường mười phương tăng trong ngày mãn hạ; tức là ngày đánh dấu đã kết thúc ba tháng cấm túc an cư, nghiêm cẩn tu hành. Ngày này thường được gọi là ngày Phật Trời hoan hỷ.
.
Chính ngày ấy Phật trời hoan hỉ
Hãy sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ tự tứ chúng tăng cúng dường
.
Kính thưa quý vị,
Qua câu chuyện Mục Liên cứu mẹ chúng ta thấy rằng chén cơm riêng tư nhỏ bé của cá nhân Ngài Mục Liên dâng cho cá nhân người mẹ đã không đạt được kết quả, đã thất bại. Tại sao lại thất bại? Thất bại vì tính chất riêng tư nhỏ bé của nó. Nói cách khác, cũng vì tâm riêng tư nhỏ mọn và ích kỷ, cục bộ và cá nhân của người mẹ mà chén cơm đã biến thành ngọn lửa dữ dằn và nguy hiểm. Nghe Mục Liên kể lại câu chuyện chén cơm hóa thành lửa dữ như vậy, đức Phật liền dùng trí tuệ của bậc đạo sư thấy được nguồn cơn của sự việc rồi giảng dạy cho Mục Liên phương pháp trải lòng ra, thăng hoa chén cơm đó thành chén cơm đại đồng bình đẳng. Nhờ lời Phật dạy mà chén cơm đó trở thành chén cơm dâng cúng cho mười phương Tăng chúng, không phân biệt thánh phàm nhơn ngã. Chén cơm đó đã được chư Tăng chú nguyện, đã thấm nhuần ân phước điển lành của giáo pháp nhiệm mầu. Nhờ lời Phật dạy mà Mục Liên đã phát triển trí tuệ và lòng từ bi cứu độ chúng sinh trong đó có cha mẹ của mình. Cứu được mẹ theo cách này là cứu được tất cả những người đang bị đọa lạc khổ đau.
.
Chúng ta nhận ra rằng người mẹ trong câu chuyện Mục Liên không còn là bà mẹ của một kiếp này mà là bà mẹ trong vô lượng kiếp sinh tử của chúng ta. Từ trong cụ thể cuộc sống, chúng ta cũng nhận ra rằng tuy nói về bà mẹ trong vô lượng kiếp nhưng cụ thể vẫn là bà mẹ của chúng ta trong hiện kiếp, vẫn là trái tim người mẹ, là tình cảm yêu thương mà cha mẹ đã dành cho chúng ta trong hiện kiếp. Hiểu như vậy thì đức Phật không chỉ khai sáng cho Mục Liên trong quá khứ mà còn khai sáng cho từng tâm hồn hiền hiếu nơi chúng ta trong hiện tại.
.
2. Tình mẫu tử thiêng liêng và đạo làm con:
Trái tim người mẹ là điều kỳ diệu của tất cả những điều kỳ diệu, là một hiện tượng phi thường của tất cả những hiện tượng phi thường đối với một đứa con có hiếu hạnh. Trái tim của người mẹ luôn luôn bao dung, luôn luôn che chở, luôn luôn ấp ủ và luôn luôn là suối nguồn tình cảm thiêng liêng đối với tất cả chúng ta. Mẹ đã chăm sóc, che chở, bảo bọc, nuôi dưỡng, để chúng ta có thể là chúng ta trong hiện tại.
.
Kỳ diệu là vậy, trước mỗi cuộc sinh thành là hài nhi được nằm trong lòng mẹ hơn 9 tháng, mẹ thở cho mẹ mà mẹ cũng thở cho hài nhi, mẹ ăn uống cho mẹ thì mẹ cũng ăn uống cho hài nhi, mẹ ngủ nghỉ là mẹ cũng ngủ nghỉ cho con. Và kỳ diệu thay thân thể của mẹ và thân thể của hài nhi là một, thân thể của mẹ ôm trọn thân thể của hài nhi, thân thể của mẹ bao bọc bên ngoài cho thân thể của hài nhi được an toàn. Nằm chơi trong thân thể của mẹ, hài nhi được an toàn và ấm áp, dễ chịu và thoải mái biết bao.
.
Kỳ diệu là vậy, trước mỗi cuộc sinh thành là hài nhi được nằm trong lòng mẹ hơn 9 tháng. Thân thể của hài nhi là một phần của thân thể mẹ, hài nhi nằm chơi trong thân thể của mẹ, an toàn ấm áp, dễ chịu và thoải mái biết bao. Và kỳ diệu thay, tuy con chia sẻ chung một thân thể với mẹ nhưng khi lạnh thì mẹ lạnh trước con, khi nóng nực thì mẹ nóng nực trước con, khi đói thì mẹ đói trước con, khi khát thì mẹ khát trước con; và những khi phải khổ não, đau đớn thì mẹ lại khổ não, đau đớn trước con.
.
Không kỳ diệu sao được khi sinh con ra đau nhức trăm bề mà lòng mẹ cứ vui mừng sung sướng chỉ mong con mình vẹn toàn, không kém khuyết. Không kỳ diệu sao được, khi con bò chơi sẩy tay bật té, chưa chắc con đã thật đau mà lòng mẹ đã đau rồi. Không kỳ diệu sao được khi lớn lên con đi đâu, chưa chắc con đã gặp điều bất ổn mà lòng mẹ đã bất ổn, thắc thỏm lo âu rồi.
.
Thời con gái, mẹ cũng đã từng tung tăng nhí nhảnh, vui chơi với bạn bè, trang lứa; nhưng khi đã có con rồi thì mẹ đã bỏ đi biết bao nhiêu cuộc vui chơi thỏa thích, khi đã có con rồi mẹ đã từ chối biết bao nhiêu lời mời gọi, khi đã có con rồi mẹ đã xa cách biết bao nhiêu là bạn bè trang lứa thân thương. Thời con gái mẹ cũng xăm xoi gương lược, chỉnh chu mặt mũi tóc tai, quần áo tươm tất; nhưng khi đã có con rồi mẹ bổng gương lược xuề xòa, áo quần qua quýt cho xong. Hầu như tất cả cái tốt đẹp mượt mà tươi tắn mẹ dồn lại rồi chuyển hóa chúng thành tình cảm thương yêu chăm chút cho con, mong cho con được 10 phần chu tất.
.
Khi lớn khôn con thi trường học, mẹ thi trường đời; mỗi một lần con vấp ngã là một lần con có mẹ an ủi, dỗ dành; nhưng mỗi khi mẹ phải thua cuộc, thất bại giữa chợ đời mà con thơ ngây thì mẹ một mình âm thầm buồn tủi. Lớn lên con đi vào chốn chợ đời, khi con làm ăn phát đạt giàu có, tiền của đủ đầy thì có biết bao nhiêu người đón rước chào mừng nhưng khi con thua lỗ nghèo thiếu thì mẹ sẽ là người cuối cùng còn lại chia sẻ đắng cay nghèo khổ với con. Ở chốn chợ đời, khi con cừ khôi giỏi dang thì có biết bao nhiêu người hoan hô cổ vũ; nhưng khi con tỏ ra sút kém vụng về thì mẹ sẽ là người nâng đở khích lệ cho con. Thậm chí mẹ còn cảm thấy mình có lỗi khi không khéo sinh ra đứa con có tài năng thiên phú giỏi dang hơn người. Ở chốn chợ đời, khi con có chức quyền địa vị thì có biết bao nhiêu người xúm xít tâng bốc, kết thân; nhưng khi con mất chức, hết quyền thì mẹ sẽ là người đồng cảm thương yêu. Ở chốn chợ đời, khi con vang danh hiển đạt, cao sang, thì có biết bao nhiêu người tỏ ra gắn bỏ thủy chung nhưng khi con sa cơ tù tội thì mẹ sẽ là người thăm nuôi chia sẻ với con những phút giây tủi cực.
.
Mẹ là biểu tượng của bình dị, đơn sơ; tình cảm của mẹ dành cho con, nuôi dưỡng thân thể và tâm hồn con lành mạnh; tình cảm của mẹ được hình dung như chén xôi, như nải chuối. Mẹ là biểu tượng của mênh mông, sâu thẳm, như cái mênh mông sâu thẳm của đại dương. Tình cảm của mẹ dành cho con dìu dặt thiết tha và ngọt ngào bất tuyệt. Mẹ là biểu tượng của trời xanh vòi vọi trên cao; mẹ là biểu tượng của ánh trăng lung linh vằng vặc đêm Rằm, tình cảm của mẹ dành cho con thanh thoát, chơi vơi làm cho những thước đo, những phép tính mà con học ở nhà trường, đo hoài, tính hoài, vói hoài không tới. Mẹ là biểu tượng của niềm vui cho con trẻ, là con diều biếc, là cánh đồng lúa thơm tho, là con sông nhỏ, là cả quê hương Việt Nam yêu dấu.
.
Mẹ bình dị đơn sơ như vậy, mẹ mênh mông sâu thẩm như vậy, mẹ dìu dặt thiết tha như vậy, mẹ êm đềm trời biển như vậy nên dù ở độ tuổi nào, mất mẹ con cũng thấy hụt hẫng hoang mang, thảng thốt:
.
Chung quanh ai cũng khóc
Im lặng tôi buồn thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là vơi khổ đi rồi
Hoàng hôn phủ lên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Con biết con mất mẹ
Là mất cả bầu trời
.
Ngày xưa còn mẹ, mỗi lần tựu trường, lễ tết, con được may áo mới. Hết buổi học, tan trường, mẹ đợi sẳn đón con về. Ngày nay không còn mẹ thì ai đón con về, ai sắm quần áo mới cho con khi mùa xuân đến.
.
Mẹ vắng rồi, ai đón đợi
Mỗi hoàng hôn đi học về
Mẹ vắng rồi quần áo mới
Mỗi xuân hồng hết sum xuê
.
Ngày xưa còn mẹ, mỗi khi con ngủ, có tiếng mẹ ầu ơ dí dầu; con ngủ mê ác mộng, có tiếng mẹ dục giả lay gọi con tỉnh dậy; mỗi khi con tủi buồn thua thiệt có tiếng mẹ vỗ về. Ngày nay không còn mẹ, thì ai ru con ngủ, ai lay gọi trong cơn mộng dữ và ai vỗ về khi con khóc.
.
Mẹ đi rồi, ai ru ngủ
Giữa cơn mê ai gọi hồn
Mẹ đi rồi, ai ấp ủ
Khi khóc buồn, ai dỗ hôn.
.
Mẹ là áo mới xum xuê, mẹ là đón đưa chờ đợi, mẹ là tiếng ầu ơ ví dầu, mẹ là tiếng lay gọi thiết tha trong cơn ác mộng, mẹ là vỗ về an ủi trong những lúc con tuổi buồn than khóc. Mẹ là vô vàn công ơn, vô vàn tình nghĩa dưỡng nuôi, che chở suốt cuộc đời của con, không có dạng công ơn, tình nghĩa nào có thể so sánh ngang bằng. Ở đời nhiều lắm những trường hợp ‘giàu đổi bạn, sang đổi vợ chồng’. Nhiều lắm vợ chồng tình nghĩa phôi pha phân cách vì cảnh sang hèn khác biệt; nhiều lắm những bằng hữu chia tay vì giàu nghèo khác biệt. ‘Xưa trắng tay còn xưng bằng hữu, giờ giàu sang quên kẻ tâm giao...’ Giữa trùng trùng những dạng tình cảm toan tính so đo như vậy, tình mẹ càng cao vòi vọi, càng sâu thăm thẳm, càng êm ái dìu dặt như đồng lúa chiều, càng ngọt ngào thơm tho như chuối ba hương, như sôi nếp một, như đường mía lao.
.
Mẹ là vô vàn công ơn, vô vàn tình nghĩa, dưỡng nuôi che chở suốt cuộc đời của con, không có dạng công ơn tình nghĩa nào có thể so sánh ngang bằng. Giữa biển đời có nhiều giông bão, sấm sét, mẹ là bến đỗ bình yên, an toàn mỗi khi con tìm về với mẹ. Giữa biển đời có nhiều gió dữ quay cuồng làm cho cuộc đời con nhiều lần lạc hướng hoang mang thì mẹ là kim chỉ nam, là ánh đuốc soi đêm để con đi theo đường ngay lối thẳng thiện lành trong sạch mỗi khi con tìm về với mẹ.
.
Một điều xót xa hổ thẹn cho những bậc xem mình là kẽ sĩ, là hào kiệt, là kinh bang tế thế, đứng ra bảo ban, chỉ giáo mọi người về văn hóa này, đạo lý kia, triết học nọ, mà bản thân không biết thương yêu đấng sinh thành, không biết đền đáp công ơn cha mẹ. Trên thế gian có nhiều nền triết học, nào là triết học duy tâm, duy vật, nào là triết học duy nghiệm, duy linh... nhưng theo đạo Phật, không có triết học nào hơn được triết học duy hiếu; hiếu với cha mẹ hiện đời và hiếu với cha mẹ của nhiều kiếp luân hồi là triết học tối thượng. Duy hiếu là triết học tối thượng. Trong đạo Phật, không có văn hóa nào hơn được văn hóa biết ơn và đền ơn, trước tiên là biết ơn và đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ. Văn hóa hiếu nghĩa là văn hóa tối thượng. Trong nhà Phật không có đạo lý nào hơn được đạo lý làm con, nói gọn là đạo con. Đạo Phật trong trường hợp này cũng là đạo lý của dân tộc, hòa vào đạo lý của dân tộc, là một với đạo lý dân tộc.
.
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.
.
Đạo con tức là đạo làm cho tròn chữ Hiếu. Như chúng ta đã biết đạo làm con không hạn hẹp trong phạm vi đền đáp, đối đãi của mối quan hệ ràng buộc giữa bổn phận cha mẹ và bổn phận con cái. Đạo làm con là đạo thiêng liêng, tình mẹ con là tình thiêng liêng, mà thiêng liêng thì không còn nằm trong phạm vi tính toán, đối đãi, thù tạc, so đo với nhau. Thế mà có những người con hay so đo đong đếm, cân nhắc xem mình phải thương mẹ bao nhiêu là vừa phải, mấy ngày, mấy tháng là đủ số, đủ bổn phận; những người con ấy quên rằng ngày xưa còn bé thơ cha mẹ đâu có tính toán với mình như vậy.
.
Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày
.
Tình mẹ là thiêng liêng của tất cả những gì thiêng liêng nhất, thiêng liêng đến độ đức Phật khẳng định kính thờ, phụng dưỡng cha mẹ ngang bằng với việc kính thờ Phạm thiên, kính thờ bậc đạo sư đời trước. Phật dạy những khi không có Phật xuất hiện ở đời, không có các bậc thánh nhân xuất hiện ở đời thì chúng ta hãy kính thờ cha mẹ, kính thờ cha mẹ có phước đức như kính thờ Phật, chư thánh hiền.
.
Bài kinh Ngang Bằng Với Phạm Thiên dạy như sau: - Những gia đình nào, này các Tỷ kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các Tỷ kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các Ðạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỷ kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường.
.
E rằng những người con không hiểu rõ việc kính thờ, xem kính thờ là chuyện thuộc lĩnh vực tâm linh trừu tượng, đức Phật giảng giải chuyện kính thờ bao gồm cả những hành động săn sóc cha mẹ như tắm rữa, thoa xức cho cha mẹ. Như vậy, kính thờ cha mẹ bằng hành động cụ thể là cung cấp thức ăn vật uống cho cha mẹ, sắm sửa quần áo, gường gối cho cha mẹ. Một điều cần được nhấn mạnh nơi những người con hiếu thảo là an trú cha mẹ trong Chánh pháp, dẫn dắt cha mẹ về đường ngay lối thẳng, thiện lành trong sạch.
.
3. Chữ hiếu mở rộng:
Đạo Phật từ trong nền tảng tư tưởng sâu xa đến những biểu hiện cụ thể trước mắt và suốt dòng lịch sử truyền bá có thể gọi nôm na là đạo trải lòng, tấm lòng của người mẹ. Vì vậy đạo Phật vô cùng khắn khít với đạo Hiếu. Đạo Phật khắn khít với đạo Hiếu đến độ hình thành phương châm: .
.
Tâm Hiếu là tâm Phật. Hạnh Hiếu là hạnh Phật.
.
Với trái tim từ mẫu và trí tuệ của bậc đạo sư, đạo Phật thấy rằng chữ Hiếu cần phải được mở. Tất cả cách nhìn cục bộ, hạn hẹp, nhỏ nhen đều không phù hợp với đạo Hiếu trong đạo Phật. Không thể chỉ Hiếu với người mẹ mà không quan tâm gì đến những người chung quanh mẹ. Hiếu với mẹ theo nghĩa rộng thì bao hàm cả việc nghĩ đến những người khác. Gồm cả cha mẹ thì có 6 người mà chúng ta phải quan tâm trong cuộc đời.
.
Cha mẹ thuộc về phương Đông,
Từ xưa khuya sớm khổ công vì mình.
Phương Nam - thầy tổ nghiêm minh
Khai thông nẽo đạo, tánh linh vun bồi.
Phương Tây chồng vợ kết đôi,
Nếp nhà gìn giữ trọn đời sắc son.
Bạn bè phương Bắc keo sơn,
Giúp nhau đúng lúc, khuyên lơn nẽo lành.
Phương Dưới, thân phận mõng manh,
Với người giúp việc lòng lành thi ân.
Phương Trên, ẩn sĩ, thượng nhân,
Siêng năng lễ bái, ân cần viếng thăm.
Sáu phương ứng với một tâm
Kính trên nhường dưới trăm năm yên lành.
Không còn hiểm nạn chung quanh
Nhơn thiên hoan hỷ chân thành tán dương.
.
Bài kệ trên đã tóm tắt một câu chuyện về phong tục đảnh lễ 6 phương ở Ấn Độ cổ đại và được ghi lại trong Kinh Trường bộ. Điều thú vị là Đức Phật tiếp nhận phong tục này và đưa vào phong tục này một ý nghĩa mới, một chiều kích mới, bao quát hết mọi người. Đảnh lễ 6 phương trong Đạo Phật có nghĩa là kính trọng 6 người. Người đầu tiên dĩ nhiên là (1) Cha mẹ. Cha mẹ là hướng Đông; sư trưởng là hướng Nam; vợ chồng là hướng Tây; bạn bè là hướng Bắc; Nô bộc là phương dưới; và những bậc hiền triết là phương trên. Thật ra, cốt lõi của chữ Hiếu là trái tim nhân hậu, biết kính trên nhường dưới. Như vậy hiếu với cha mẹ thì đồng thời phải đối xử tử tế, có tình có nghĩa trước sau nhân hậu với (2) thầy tổ và sư trưởng, sống có tình có nghĩa trước sau nhân hậu tử tế với (3) vợ chồng, sống có tình có nghĩa trước sau nhân hậu tử tế (4) với bạn bè, sống trước sau nhân hậu tử tế với (5) nô bộc, người ăn kẻ ở, và cuối cùng sống trước sau nhân hậu tử tế với (6) những bậc trên trước.
.
Như vậy chúng ta thấy rằng là đạo trải lòng, tấm lòng của người mẹ. Đạo Phật càng truyền rộng và lan xa chừng nào thì càng thể hiện những phẩm chất của trái tim người mẹ và càng khắn khít với đạo nghĩa biết ơn và nhớ ơn chừng ấy. Đồng thời, đạo Phật cũng góp phần làm cho đạo Hiếu có thêm chiều kích cao xa và biên độ rộng lớn hơn nữa. Đạo Hiếu trong đạo Phật không những đối với cha mẹ đời này mà còn tính đến cha mẹ của nhiều đời, cha mẹ của nhiều kiếp luân hồi. Đạo Hiếu trong đạo Phật không những đối với con người mà còn tính đến vạn loại sinh linh đang sống trong lầm lỗi vô minh cần phải được bao dung bằng trái tim của người mẹ và soi sáng bằng trí tuệ của bậc đạo sư.
.
Kính thưa quý vị,
Ở đời, xui rũi thì nhiều, may mắn thì ít. Ai sống trong đời mà không muốn có may mắn. May mắn có nghĩa là làm ít mà được nhiều, làm nhiều thì được nhiều hơn. Có trường hợp may mắn hầu như không làm gì mà phước lộc tự tìm đến. Sống trong đời còn cha, còn mẹ quả là một may mắn. Thử nhìn vào thế giới có nhiều chiến tranh và bệnh tật, thiên tai và nhân họa này thì có bao nhiêu người còn đủ cả cha lẫn mẹ. Còn đủ cả cha lẫn mẹ quả là một vận may.
.
Mặt khác, đạo Phật trong ý nghĩa là đạo Hiếu mà đạo Phật là đạo hành động thì đạo Hiếu trong đạo Phật là đạo Hiếu hành động. Vì vậy chúng ta làm được điều gì có hiếu với cha mẹ phải xem đó là vận may, là một thành công trong kiếp làm người. Chúng tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng chúng ta làm được bất cứ điều gì có hiếu với cha mẹ thì phải xem đó là vận may, là một thành công trong kiếp làm người. Chúng tôi xin nhấn mạnh vận may ở đây là vận may tối thượng, thành công ở đây là một thành công lớn, có thể nói là thành công lớn nhất của kiếp làm người.
.
Ở đây, chúng ta hãy nghe một đoạn khác trong bài kinh Ngang bằng với Phạm thiên: - Phạm Thiên, này các Tỷ kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Các Ðạo sư thời xưa, này các Tỷ kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Ðáng được cúng dường, này các Tỷ kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ kheo, là cha mẹ đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời.
.
Mẹ cha gọi Phạm Thiên,
Bậc Ðạo sư thời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu
Do vậy, bậc Hiền triết
Ðảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp (cả thân mình)
Tắm rửa cả tay chân
Với sở hành như vậy,
Ðối với mẹ và cha
Ðời này người Hiền khen
Ðời sau hưởng Thiên lạc
.
Làm được như vậy, chúng ta sẽ đầy đủ tự tin trong cuộc sống và không còn phải băng khoăng đối với bổn phận làm con:
.
Cha sinh ta, mẹ nuôi ta.
Nhớ ơn cha mẹ xót xa tấc lòng,
Thương vì khó nhọc ẳm bồng,
Ân sâu muốn trả hỏi lòng làm sao?
.
Kính chúc quý vị thân tâm thường lạc, sống theo chánh tín, chánh pháp để trọn đời là những người con, người cháu hiền hiếu; những cô dâu, chú rễ thảo ngay; những công dân gương mẫu, góp phần xây dựng tổ quốc, xã hội Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc. Kính chúc một mùa Vu lan nhiều ý nghĩa thăng hoa cho mỗi một quý vị và cho cả dân tộc Việt Nam. Nguyện cầu chư Phật, chư Bồ tát mười phương ban phước báo, ân lành cho quý vị cùng gia đình quý quyến. Nguyện cầu cho thế giới hòa bình, nhân sinh an lạc.
.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
Cảm ơn sự chú ý lắng nghe của quý vị.
.

Tuesday, August 28, 2007

Phat giao o Afghanistan thoi xua

.
Sơ lược về Phật giáo ở Afghanistan thời xưa
Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Afghanistan phiên âm theo Trung Quốc là A-phú-hãn là một trong những vùng cư dân có mặt sớm nhất trên quả địa cầu và được những tác phẩm văn học cổ của Ấn-độ, Hy-lạp và Trung Quốc đề cập và miêu tả. Lãnh thổ của Afghanistan ngày nay có hình dáng một chiếc lá nằm ngay trung tâm của Trung Nam Á, tiếp giáp biên giới với nhiều nước, phía Đông và Nam tiếp giáp biên giới với Pakistan (Ba-cơ-tư-thản), phía Tây giáp với Iran (Y-lãng), phía Bắc giáp với Turmenistan (Thổ-khố-man), Uzbekistan (Ô-tư-biệt-chỉ) và Tajikistan (Tháp-cát-chỉ) thuộc Liên Bang Xô-viết củ. Afghanistan còn có 200 dặm giáp với Jammu và Kasmir và 50 dặm giáp với Trung Hoa. Thủ đô của Afghanistan là thành phố Kabul.
.
Thật ra danh từ Afghanistan chỉ được gọi chính thức từ thế kỷ thứ 18 sau khi sắc dân Afghan [những sắc dân đồng đại là Taziks, Turks, Mongols, Indo-Aryans, Uzbek, Hazara...) đã chinh phục và thiết lập được một nền cai trị trên lãnh thổ nầy. Ngược dòng lịch sử chúng ta biết rằng sắc tộc Afghan xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 9. Nói đúng hơn Afghan là một hổn hợp gồm nhiều sắc dân khác nhau cư trú trên những vùng đất biệt lập với nhau thuộc khu vực Hindu Kush (mạn phía Tây của dãy Hy-mã-lạp-sơn). Miền Bắc là khu vực của sắc tộc Udyàna hay Oddiyana. Miền Trung là khu vực của sắc tộc Kapisa và Miền Tây Bắc là khu vực của sắc tộc Balhika.
.
Những di tích của Phật Giáo hoặc rãi rác khắp nơi khắp nơi trong đất nước Pakistan hoặc tập trung ở những khu sinh hoạt sầm uất, đặc biệt là khu vực Bamiyan nơi có hai pho tượng Phật cổ bằng đá vĩ đại nhất thế giới. Bamiyan cũng nổi tiếng vì những kiến trúc bằng đá tạo dựng dọc theo sườn núi. Người ta đã tìm thấy dấu vết của trên 20 nghìn kiến trúc như vậy. Thật ra chưa có ai bỏ công ra đếm để có con số chính xác là bao nhiêu. Nhưng con số trên 20 nghìn kiến trúc trên những vùng núi và̀ chưa kể một số lượng lớn hơn những cơ sở Phật Giáo ở những vùng cao nguyên, đồng bằng và thị tứ mà ngày nay đã bị xóa trắng không còn vết tích gì cả đủ để chứng minh rằng Afghanistan có thời là một trong những trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong thời cổ.
.
Từ lâu chính quyền Hồi Giáo Afghanistan theo đuổi chính sách bế quan tỏa cảng thủ cựu nên việc khảo cổ không thể tiến hành cho mãi đến năm 1922 thì một đoàn khảo cổ người Pháp mới bắt đầu được phép đến. Hầu hết những hiểu biết về quá khứ Phật Giáo ở đất nước Afghanistan đều nhờ đoàn chuyên gia nầy thông tin mà có được.
.
Tuy rằng Phật Giáo phát triển mạnh mẽ ở Afghanistan, cụ thể là khu vực Gandhara ở miền Đông, Kandahar ở Miền Nam, Balkh ở Miền Bắc, Tukhar ở Miền Đông Bắc vào những thập niên đầu Tây lịch nhưng chúng ta cũng biết rằng những lời dạy của Đức Phật đã được khẩu truyền ở Afghanistan sớm hơn thời gian trên rất nhiều. Tuần lễ thứ bảy sau khi đức Thế tôn thành đạo dưới cội Bồ-đề thì có hai thương gia tên là Tapassu và Bhallika từ Orissa (tên xưa là Kalinga thuộc miền Cực Đông Ấn Độ) trên đường về quê nhà, đi ngang qua chổ đức Phật ngự và có được cơ hội cúng dường đức Phật lần đầu tiên. Sau khi cúng dường Thế Tôn xong Tapassu và Bhallika xin được làm đệ tử Phật và trở thành hai thiện nam quy y Nhị Bảo vì khi ấy chưa có Tăng Đoàn. (Đức Phật và Phật Pháp, Thành Hội Phật Giáo Thành Phố HCM, 1991, tr. 77-78). Tapassu và Bhallika gốc người xứ Balhika, hiện nay là thành phố Balkh, một thành phố cổ kính và phồn thịnh của Afghanistan. Như vậy chính hai người thiện nam nầy đã mang lời dạy của Phật đến Afghanistan đầu tiên. Sau đó Bhallika trở sang Vương Xá xuất gia thọ giới Tỷ-kheo rồi lại trở về quê hương Afghanistan để hoằng truyền Phật Pháp. Dân ở xứ Balkh có xây dựng một tu viện để dâng cúng cho ông và Tăng đoàn. Đây cũng là tu viện đầu tiên ở Afghanistan có trong thời Phật.
.
Khoảng 100 năm sau khi đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, một số Tỷ-kheo thuộc Ma-ha-tăng-kỳ-bộ du hóa vào Afghanistan hoằng đạo và xây dựng được nhiều cơ sở ở Udyàna, vùng đất cực Đông của Afghanistan. Như vậy giáo đoàn Ma-ha-tăng-kỳ-bộ đã là giáo đoàn đầu tiên hoằng truyền Phật Pháp theo tuyến đường du hóa của Đạo Phật vào các quốc gia Trung Nam Á. Khoảng một thế kỷ sau đó dưới triều đại của vua A-dục trưởng lão Maharakkhita thuộc Thượng Tọa Bộ cũng đã đến hoằng truyền Phật Pháp nơi đây. Thực tế lịch sử cho biết Phật Giáo đã bám rễ sâu dần vào đất nước Afghanistan và thấm nhuần vào tâm hồn của các sắc dân ở đất nước xinh đẹp nầy. Phật Giáo thật sự trở thành một tôn giáo chủ đạo trải qua một thời gian kéo dài cả ngàn năm cho đến khi tất cả những quốc gia Trung Á nầy bị đoàn quân hùng mạnh của Hồi Giáo xăm lăng và thiết lập một bộ máy cai trị rộng khắp vào thế kỷ thứ 10.
.
Theo ngài Huyền Trang thì vương quốc cổ Bamyan kéo dài khoảng 2 ngàn dặm từ Đông sang Tây và khoảng 300 dặm từ Bắc xuống Nam, thủ đô nằm trên triền dốc cao của một dãi đồi mà phía Bắc có một vực núi rất sâu và hiểm trở. Lòng yêu chuộng Phật Giáo và tâm hồn chơn chất của người dân ở Bamyan được những sắc dân lân bang ca ngợi. Ngài Huyền Trang kể rằng lúc ngài đến đó thì nơi đó đã có 10 ngôi tịnh xá và khoảng một ngàn vị Tỷ-kheo, tất cả đều tu theo tông phái Xuất Thế Thuyết Bộ, một bộ phái quan trọng thuộc Ma-ha-tăng-kỳ-bộ. Xuất Thế Thuyết Bộ chủ trương rằng tất cả các pháp thế gian chỉ là những hiện tượng mà thôi chớ không phải là thực tại. Thực tại tối hậu vượt ra ngoài những pháp mà con người có thể nhận thức được ở thế gian. Ngoài pho tượng Phật nổi tiếng cao 55 mét và một pho tượng khác cao 35 mét, trên những đỉnh đồi xứ Bamyan còn có di tích của những ngôi tháp cổ kính. Dưới những sườn đồi vẫn còn những hang động lớn nhỏ khác nhau mà giới tu sĩ Phật Giáo ngày xưa dùng làm điện Phật, thính đường hay am thất. Dọc theo vách núi là những tượng Phật được điêu khắc thẳng vào đá núi. Ngoài ra còn rất nhiều di tích của những ngôi tịnh xá và những tượng Phật nhỏ hơn.
.
Thành phố Hadda và Jallalabad cách thủ đô Kabul 177 cây số về phía Đông của Afghanistan là hai địa danh nổi tiếng là có nhiều chùa tháp và tranh tượng Phật Giáo thuộc trường phái nghệ thuật Gandhara. Thành phố Kapisa của Afghanistan cũng đã từng là một thủ đô của đại vương triều Kusana mà vua Ka-nị-sắc-ca là vị vua nổi tiếng trong việc hộ trì và hoằng dương Phật Pháp. Kaniska cũng có khi được viết là Kanishka (phiên âm theo Trung Quốc là Ka-nị-sắc-ca) là vị đại đế vĩ đại nhất của vương triều Kushan. Vương quốc Kushan bao gồm phía Bắc của lục địa Ấn-độ, toàn bộ Afghanistan và Bắc Kasmir thuộc Trung Á. Kaniska không nổi tiếng vì vương quốc rộng lớn mà mình trị vì mà nổi tiếng là một người hộ trì Tam Bảo vĩ đại. Hầu hết những hiểu biết về vị vua nầy đều nhờ vào những nguồn tư liệu của Trung Quốc, đặc biệt là những tư liệu Phật Giáo. Trong 23 năm trị vì, ngoài việc xây dựng chùa tháp và đào tạo tăng tài Kaniska thật sự nổi tiếng là một người Phật Tử tại gia vĩ đại là nhờ vào việc ông ta đứng ra triệu tập cuộc kiết tập kinh điển lần thứ tư tại xứ Kasmir. Chính cuộc kiết tập kinh điển lần nầy đã đánh dấu sự bắt đầu hưng khởi của Phật Giáo Đại Thừa. Theo nguồn tư liệu Trung Quốc thì tại cuộc kiết tập nầy những bản sớ giải của Thánh điển Phật Giáo được biên tập và chạm khắc lên những bảng bằng đồng. Ngày nay di tích của hoàng cung vua Ka-nị-sắc-ca đã được các nhà khảo cổ tìm thấy. Đó là một khu vực rộng lớn bao gồm quận Shotorak và cả Paitawan ngày nay trong đó có một hệ thống lầu các cung điện tráng lệ bên cạnh là những tháp miếu và những tu viện to lớn.
.
Ngoài dấu vết những bản kinh bằng đồng của vua Kaniska còn có những bia ký của vua A-dục còn tồn tại ở Afghanistan. Những bia đá trải qua trên 2000 năm vẫn còn đó nhắc chúng ta rằng Afghanistan có thời là một châu quận trong vương quốc mênh mông của vua A-dục, vị vua sau cùng và vĩ đại nhất của vương triều Mauriya. Vương triều nầy kéo dài khoảng 136 năm, thủ phủ là Pataliputra (Hoa Thị Thành) nằm trong khu vực giao lưu giữa sông Hằng và sông Son. Sau khi Alexander đại đế băng hà thì Candra Gupta vị thái tổ của triều đại Maurya xây dựng nên một vương quốc rộng rãi bao gồm toàn bộ khu vực Trung và Bắc Ấn-độ. Chính trong thời gian vua A-dục trị vì thì cuộc kiết tập kinh điển lần thứ ba được tiến hành để đọc tụng và xác minh lại những lời dạy của Đức Thế Tôn. Asoka là một Phật Tử rất tích cực trong việc hộ trì và nổ lực trong việc hoằng dương Chánh Pháp. Ông đã gởi các giáo đoàn truyền giáo đi đến nhiều nơi, nhiều địa phương và nhiều vùng đất xa xôi để hóa đạo. Có người cho rằng một trong những đoàn truyền giáo thời vua A-dục đã đến Nam Việt Nam hóa đạo và viên tịch trong vùng núi Ba Thê, Châu Đốc. Trong nước thì vua A-dục sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để giảng dạy giáo lý và cho chạm khắc những bài kinh chính yếu của Phật Giáo trên những văn bia và những trụ đá ở những nơi tôn nghiêm. Tượng con sư tử trên một cột đá thời vua A-dục đã trở thành quốc huy của Nước Cộng Hòa Ấn-độ ngày nay.
.
Địa phận Haibak (có tên cũ là làng Sa-môn) còn một ngôi tháp bằng đá nguyên khối với con đường thiền hành (Pradaksinapatha) chung quanh là độc nhất vô nhị trên thế giới. Tất cả những di tích còn lại trong lãnh thổ Afghanistan, những ngôi chùa Phật, những hệ thống tu viện, tăng xá, tháp, miếu, điện, đường... những di tích mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng đủ nói lên sự thật rằng A-phú-hãn đã có thời là một quốc gia trù phú và hưng thịnh của Phật Giáo trong quá khứ.
.

Bamyan, Phat Giao thoi xua

.
Bamyan, xứ sở của Phật Giáo thời xưa
Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Bamyan là một thung lũng xanh mướt vì đất đai phì nhiêu mầu mở nằm cách thủ đô Kabul của Afghanistan 80 dặm về phía Tây Bắc. Bamyan ngày nay là nơi có rất nhiều những hang động là những điện thờ và những giảng đường vĩ đại do người Phật tử ngày xưa đục vào sườn núi tạo thành. Di tích của những ngôi tinh xá, chùa chiền và tháp cổ chứng tỏ rằng thung lũng Bamyan đã là chứng nhân của một thời hưng thịnh của Phật Giáo tại đây. Đất nước Afghanistan và đặc biệt là Bamyan đã trải qua một thời kỳ huy hoàng trong lịch sử Phật Giáo với những dấu tích không phai mờ thế mà giờ đây người ta không tìm thấy đâu một người Phật tử còn sót lại.
.
Trên những đỉnh đồi xứ Bamyan vẫn còn di tích của những ngôi tháp cổ kính. Dưới những sườn đồi vẫn còn những hang động lớn nhỏ khác nhau mà giới tu sĩ Phật Giáo ngày xưa dùng làm điện Phật, thính đường hay am thất. Bamyan vẫn còn được nhắc tới trong sách vở Phật Giáo là nhờ vào những di tích và những tượng Phật được điêu khắc vào vách núi. Ngoài ra còn rất nhiều di tích của những ngôi tịnh xá và những tượng Phật nhỏ hơn.
.
Vào năm 630 ngài Huyền Trang đã đến viếng Bamyan và chính ngài Huyền Trang đã ghi lại những điều mà ngài đã tai nghe mắt thấy. Theo ngài Huyền Trang vương quốc Bamyan kéo dài khoảng 2 ngàn dặm từ Đông sang Tây và khoảng 300 dặm từ Bắc xuống Nam, thủ đô nằm trên triền dốc cao của một dãi đồi mà phía Bắc có một vực núi rất sâu và hiểm trở. Lòng yêu chuộng Phật Giáo và tâm hồn chơn chất của người dân ở Bamyan được những sắc dân lân bang ca ngợi. Ngài Huyền Trang kể rằng lúc ngài đến đó thì nơi đó đã có 10 ngôi tịnh xá và khoảng một ngàn vị Tỷ-kheo, tất cả đều tu theo tông phái Xuất Thế Thuyết Bộ, một bộ phái quan trọng thuộc Đại Chúng Bộ. Xuất Thế Thuyết Bộ chủ trương rằng tất cả các pháp thế gian chỉ là những hiện tượng mà thôi chớ không phải là thực tại. Thực tại tối hậu vượt ra ngoài những pháp mà con người có thể nhận thức được ở thế gian.
.
Cho đến thế kỷ thứ 8 thì những hoàng tử của xứ Bamyan bắt đầu rời khỏi Phật Giáo và cải đạo theo Hồi Giáo dưới triều đại Abbasid (754-785) dù vậy việc đập phá tượng Phật lúc ấy không hề xảy ra. Những ngôi tinh xá và những pho tượng Phật vĩ đại vẫn còn tồn tại cho đến thế kỷ thứ 9. Ngày nay tại xứ Bamyan vẫn còn đứng đó những pho tượng Phật chạm khắc bằng đá lớn nhất thế giới trong thời cổ đại cũng như thời hiện đại. Một pho tượng cao 173 feet (trên 52 mét) và một pho tượng khác cao 120 feet (trên 36 mét) [1 foot = 30, 48 cm]. Có lẽ vì một pho tượng làm bằng đá đỏ và một pho tượng làm bằng đá trắng nên người dân ở đây gọi đó là tượng “Bụt Đỏ” và tượng “Bụt Trắng”. Những pho tượng nầy có thể có niên đại trong khoảng từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ sáu Tây Lịch.
.
Xứ sở Bamyan xinh đẹp đã từng làm mê mẫn tấm lòng của khách hành hương. Mặc dầu việc hành trì theo giáo lý nhà Phật đã chấm dứt cách đây hơn 11 thế kỷ những khách hành hương vẫn còn có thể cảm nhận một từ lực tĩnh lặng mà việc hành trì đó tạo nên. Bạn sẽ có được cảm nhận đó nếu bạn đứng bên một sườn đồi của xứ Afghanistan đưa mắt nhìn sang thung lũng Bamyan xinh đẹp đang được ánh trăng nhuộm vàng bằng một màu vàng dịu dàng và thanh khiết. Phía bên kia bạn sẽ thấy còn đó những gian am thất làm bằng đá và vẫn còn đứng đó những bức tượng Phật trong một bầu không khí thanh thản êm đềm. Nếu bạn trầm mặc chiêm ngưỡng thì một từ lực an lành của Đức Phật sẽ thấm sâu dần vào tâm hồn của bạn.
.

Friday, August 24, 2007

Vong Linh & Le Hoi Vu Lan

.
TỪ QUAN NIỆM VỀ VONG LINH ĐẾN LỄ HỘI VU LAN
Thích Minh Thành Ph.D.
.
Từ thuở xa xưa, trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời, Bà la môn giáo đã có quan niệm cho rằng sau khi mệnh chung vong linh không có thân xác, sống vất vưởng, khổ sở suốt một năm trong trạng thái trung gian. Trong trạng thái này, vong linh quấy phá, tìm cách báo cho gia đình phải tổ chức lễ sraddha cầu cúng, nhờ đó mà vong linh sẽ có được một dạng thân tướng mới, nếu không nó sẽ bị tan biến vào hư vô. Với thân tướng mới này, vong linh sẽ gia nhập vào cộng đồng của tổ tiên mình trên cõi trời.
.
Điều khá thú vị là tâm thức của loài người thuở ấy đã mường tượng ra một cuộc hành hình ngang qua những điểm mốc không thời gian vừa hiện thực vừa bay bổng. John Bower đã miêu tả rằng những nghi lễ của Bà-la- môn như lễ sraddha và lễ sapindakarana được cử hành để giúp vong linh người chết không bị tan mất khi bước sang thế giới bên kia. Có một ngã ba đường mà vong linh nào cũng phải đối diện và chọn lựa. Áo nghĩa thư ghi lại như sau: Sau khi chết vong linh của người ta phải đi theo một trong hai con đường: Một, con đường trở thành gia chủ; đó là con đường về phương Nam và khi đi đến cuối đường vong linh sẽ quay trở lại trần gian theo một lộ trình khá phức tạp: Đi theo con đường về phương Nam vong linh sẽ nhập vào đám khói thiêu xác của mình, rồi từ đó trải qua một đêm bay lên phần tối của vầng trăng khuyết trên bầu trời. Trải qua 6 tháng khi mặt trời di chuyển về phương Nam, nương theo đó vong linh đi về thế giới của gia chủ, rồi lại bay lên nhập vào vầng trăng sáng tròn đầy để hưởng phước. Sau khi trú ở cung Hằng cho đến khi hết phước, vong linh lại đi vào không gian, rồi nhập vào gió, khói, sương, mây, mưa, cuối cùng nằm trong cây trái. Khi một người nào đó ăn trái cây thì vong linh nhập vào tinh ba của người ấy rồi đi vào dạ con của người phụ nữ. Cuộc luân hồi lại bắt đầu. Hai, con đường lên thiên giới; đó là con đường về phương Bắc, dẫn đến chổ giải thoát. Những vong linh đi theo con đường về phía Bắc thì nhập vào đám khói bốc lên từ dàn hỏa thiêu xác của mình, rồi nhập vào ánh sáng ban ngày, rồi cũng bay lên phần tối của vầng trăng khuyết. Trải qua 6 tháng khi mặt trời chuyển về phương Bắc vong linh nhập vào mặt trời, mặt trăng và hòa tan vào ánh chớp. Từ đó vong linh được một vị phi nhơn dẫn đi lên cảnh giới của Phạm thiên.
.
Khái niệm vong linh (peta) của Bà la môn được Phật giáo sơ kỳ tiếp nhận sau khi lột bỏ tất cả những yếu tố, những chi tiết thuần túy tưởng tượng, hoang đường và vô bổ. Trong ánh sáng của tuệ nhãn Phật giáo thì vong linh không phải là hoàn toàn không có thân tướng, phải chờ đợi lễ sraddha mới có được thân tướng. Kinh điển Phật giáo ghi lại rằng vong linh tự nó đã là một dạng thân tướng mặc dầu thân tướng này vẫn sống nhờ vào lễ cúng của người thân.
.
Tác phẩm Petavatthu[1] thuộc Kinh tạng Pali đề cập một số vong linh gọi là ‘ngạ quỷ’ sống trong cảnh triền miên đau khổ, ăn uống những thứ dơ bẩn với thân thể tàn tạ, nhớp nhúa. Những vong linh này thường ở hố xí, nghạch cửa, ngã tư, hào nước, vườn rừng hay những bải tha ma để ăn xác chết. Truyền thống Đại thừa miêu tả chúng là một loài quỷ đói khát, bụng to như trống, cổ nhỏ như kim; thức ăn vật uống đi ngang qua cuốn cổ nhỏ như vậy không bao giờ đủ để làm dịu đi cảm giác đói khát nóng bỏng, bức não từng cơn. Petavatthu có cách miêu tả chừng mực hơn về nổi khổ của vong linh; đồng thời, về phương diện tích cực, vong linh trong nhiều trường hợp được so sánh gần ngang bằng với chư thiên có oai lực lớn. Trường hợp nổi bật nhất là dạng vong linh tên là Vimanapeta, tức là vong linh làm chủ nhân của những tòa lâu đài trên cõi trời.
.
Mặc dù những vong linh sống cùng một không gian với loài người nhưng chúng lại thuộc về cảnh giới khác, chiều kích khác, cộng thông với thế giới do Tứ thiên vương cai quản. Thế giới này rất lớn trải rộng từ bề mặt quả địa cầu đến tận đỉnh núi Tu di. Trong thế giới mênh mông và mở rộng này có nhiều dạng phi nhân từ những chủng loại lớn như Dạ xoa, Long thần, Càn thát bà, Khẩn na la, A tu la... đến những loài phi nhân nhỏ như những vị thiên trú ẩn trong gia đình, trên cây lớn, hồ lớn... Khi Phật giáo lan tỏa vào châu Á, phong phú những vị thần thánh địa phương được Phật giáo tiếp nhận rồi hòa nhập vào thế giới mở rộng này.
.
Chúng ta thấy rằng trong Kinh tạng sơ kỳ việc hóa sinh thành một vị thiên hay chỉ là một vong linh dường như có mức độ khác biệt không quá xa về mặt biểu hiện. Nhưng về mặt ý nghĩa, đó chính là hai đối cực trong một bảng quang phổ về hạnh phúc và khổ đau.
.
Theo Phật giáo, khi mệnh chung một người không hóa sinh thành chư thiên mà lại trở thành một vong linh là do khi sống người ấy không biết bố thí cúng dường hoặc đã gieo tạo nhiều nghiệp ác xấu. Thời tiền Phật giáo, điều này được ‘cứu gỡ’ qua nghi lễ tế lửa của Bà la môn. Trong nghi lễ tế lửa, vị chủ tế giúp người chết thực hiện bổn phận bố thí cúng dường ngang qua việc đưa vật cúng vào ngọn lửa linh hiến tế. Sau đó, Phật giáo đã vận dụng tập tục tín ngưỡng sẳn có này với nội dung và ý nghĩa mới, xây dựng truyền thống dâng cúng phẩm vật lên ngôi Tam bảo. Dần dần lễ Vu lan được thiết lập và câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ càng lúc càng tỏa sáng, tác động mạnh vào tâm linh của những người con hiếu thảo.
.
Khi tiếp xúc với nền văn hóa trọng chữ hiếu của Trung Quốc và Việt Nam, lễ Vu lan đã thăng hoa thành một lễ hội văn hóa lớn với ý nghĩa trọng tâm là ‘uống nước nhớ nguồn’, nhớ ơn và đền đáp công ơn, nhất là thâm ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, dù còn hiện hữu trong đời hay đã là những vong linh hay hương linh đã quá vãng. Ngày nay, lễ hội Vu lan đã là điểm son trong đời sống văn hóa của những người con Phật khắp nơi trên thế giới.
.
[1] Việt dịch là Ngạ Quỷ Sự đã không bao hàm được những câu chuyện về Vimanapeta, dạng vong linh có phước đức và oai lực lớn.
.