Wednesday, August 29, 2007

Vu lan, chu Hieu va...

.
VU LAN, CHỮ HIẾU VÀ TẤM LÒNG RỘNG MỞ
bài giảng Vu lan 2007, Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Hằng năm cứ mỗi độ thu về thì tấm lòng của những người con Việt Nam nhất là những người con Phật chúng ta lại hân hoan đón mừng lễ hội Vu lan cúng dường lên mười phương Tam Bảo. Đây là một truyền thống quý báu của những người con hiền hiếu từ ngàn xưa, của những con hiền hiếu chúng ta hiện nay và mãi mãi về sau.
.
Mẹ ơi một kiếp bôn ba
Sớm hôm dầu dãi, ngày qua lại ngày
Mẹ vui áo vá, vai gầy
Cho con gấm lụa, trang đài nét xinh.
.
Một đời mẹ chẳng trau tria
Nếp nhà mẹ giữ sớm khuya tảo tần
Tương rau đạm bạc thanh bần
Hiền lương đôn hậu nghĩa nhân một đời
.
Kính thưa quý vị,
Bài pháp thoại hôm nay được chia là 3 phần như sau: (1) Câu chuyện Mục Liên cứu mẹ; (2) Tình mẫu tử thiêng liêng và đạo làm con; (3) Chữ hiếu mở rộng.
.
1. Câu chuyện Mục Liên:
Trước hết chúng tôi xin trình bày khái lược về câu chuyện Mục Liên, khơi nguồn cho lễ hội Vu Lan theo truyền thống Phật giáo Việt Nam. Lễ Vu lan có cội nguồn từ tích truyện Mục Liên tầm mẹ: Mục Liên là một nhà sư thời xưa đã tu hành đúng theo chánh pháp và chứng thành đạo quả, có đủ sáu phép thần thông, có đủ oai lực và đạo hạnh của một vị A la hán. Nhưng ngay khi chứng thành đạo quả thì Mục Liên chợt nhớ đến người mẹ của mình. Vì nhớ mẹ, thương mẹ, muốn đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục nên Mục Liên bèn sử dụng phép thần thông bay đi tìm kiếm khắp nơi. Ngài đã bay đi tìm mẹ, Ngài đã bay lên các cõi trời trên cao, đã bay lên các cõi trời cao hơn nữa. Ngài đã bay lên đến cõi trời cao nhất nhưng vẫn không tìm thấy người mẹ. Ngài bèn bay về cõi nhân gian tìm mẹ khắp năm châu bốn biển, Ngài vẫn không tìm được mẹ. Ngài không thấy người mẹ ở cõi nhân gian, Ngài không thấy người mẹ ở đâu cả.
.
Hết ngày này sang ngày khác kiếm mẹ mà không thấy, Mục Liên thất vọng quá, buồn quá. Mục Liên không dám nghĩ tới chuyện không lành nhưng Ngài phải đành ngậm ngùi đi xuống cõi u minh để tìm mẹ. Mục Liên lần dò tìm xuống cõi u minh. Như chúng ta đã biết con đường đi xuống u minh thật là lạnh lẽo và u ám. Mục Liên lần dò từng bước, thỉnh thoảng cất tiếng gọi: “Mẹ ơi! con đi tìm mẹ đây” (2), “Mẹ ơi!, Mẹ ở đâu?” (2). Rồi Mục Liên gặp mẹ trong tình cảnh thật não lòng, mẹ Ngài là một tội nhân trong địa ngục, là hiện thân của một con quỷ. Đói khát hành hạ, nóng bức dày dò. Thấy vậy Ngài dâng bát cơm cho mẹ được đở lòng:
.
Mắt đượm ưu sầu lòng hiếu thảo
Tay ôm bình bát đựng cơm thiền
Xuống cõi A tỳ xin viếng mẹ
Mẹ ơi! Con mẹ Mục Kiền Liên
.
Ngày xưa khi còn sống trên dương thế, người mẹ đã xan tham hẹp hòi nên khi chết rồi mẹ đã phải bị đọa xuống cõi địa ngục u đồ, hiện thân làm một con quỷ đói khát. Và, than ôi, giờ đây người mẹ lại tiếp tục xan tham hẹp hòi, lấy tay che chén cơm, khiến cho chén cơm hóa thành than lửa. Thấy chén cơm đã hóa thành ngọn lửa, Mục Liên chua xót, ngẩn ngơ..
.
Chua xót căn nguyên đường ngạ quỷ
Ngẩn ngơ hình phạt chốn u minh
Bát cơm dâng mẹ nhìn tha thiết
Hóa lửa than ôi thảm sự tình.
.
Mục Liên phải trở về kể lại sự tình đau lòng đó cho Phật nghe. Nghe xong, đức Phật bèn chỉ bày phương pháp báu hiếu nhiệm mầu. Phương pháp nhiệm mầu đó là cúng dường mười phương tăng trong ngày mãn hạ; tức là ngày đánh dấu đã kết thúc ba tháng cấm túc an cư, nghiêm cẩn tu hành. Ngày này thường được gọi là ngày Phật Trời hoan hỷ.
.
Chính ngày ấy Phật trời hoan hỉ
Hãy sắm sanh bá vị cơm canh
Đựng trong bình bát tinh anh
Chờ giờ tự tứ chúng tăng cúng dường
.
Kính thưa quý vị,
Qua câu chuyện Mục Liên cứu mẹ chúng ta thấy rằng chén cơm riêng tư nhỏ bé của cá nhân Ngài Mục Liên dâng cho cá nhân người mẹ đã không đạt được kết quả, đã thất bại. Tại sao lại thất bại? Thất bại vì tính chất riêng tư nhỏ bé của nó. Nói cách khác, cũng vì tâm riêng tư nhỏ mọn và ích kỷ, cục bộ và cá nhân của người mẹ mà chén cơm đã biến thành ngọn lửa dữ dằn và nguy hiểm. Nghe Mục Liên kể lại câu chuyện chén cơm hóa thành lửa dữ như vậy, đức Phật liền dùng trí tuệ của bậc đạo sư thấy được nguồn cơn của sự việc rồi giảng dạy cho Mục Liên phương pháp trải lòng ra, thăng hoa chén cơm đó thành chén cơm đại đồng bình đẳng. Nhờ lời Phật dạy mà chén cơm đó trở thành chén cơm dâng cúng cho mười phương Tăng chúng, không phân biệt thánh phàm nhơn ngã. Chén cơm đó đã được chư Tăng chú nguyện, đã thấm nhuần ân phước điển lành của giáo pháp nhiệm mầu. Nhờ lời Phật dạy mà Mục Liên đã phát triển trí tuệ và lòng từ bi cứu độ chúng sinh trong đó có cha mẹ của mình. Cứu được mẹ theo cách này là cứu được tất cả những người đang bị đọa lạc khổ đau.
.
Chúng ta nhận ra rằng người mẹ trong câu chuyện Mục Liên không còn là bà mẹ của một kiếp này mà là bà mẹ trong vô lượng kiếp sinh tử của chúng ta. Từ trong cụ thể cuộc sống, chúng ta cũng nhận ra rằng tuy nói về bà mẹ trong vô lượng kiếp nhưng cụ thể vẫn là bà mẹ của chúng ta trong hiện kiếp, vẫn là trái tim người mẹ, là tình cảm yêu thương mà cha mẹ đã dành cho chúng ta trong hiện kiếp. Hiểu như vậy thì đức Phật không chỉ khai sáng cho Mục Liên trong quá khứ mà còn khai sáng cho từng tâm hồn hiền hiếu nơi chúng ta trong hiện tại.
.
2. Tình mẫu tử thiêng liêng và đạo làm con:
Trái tim người mẹ là điều kỳ diệu của tất cả những điều kỳ diệu, là một hiện tượng phi thường của tất cả những hiện tượng phi thường đối với một đứa con có hiếu hạnh. Trái tim của người mẹ luôn luôn bao dung, luôn luôn che chở, luôn luôn ấp ủ và luôn luôn là suối nguồn tình cảm thiêng liêng đối với tất cả chúng ta. Mẹ đã chăm sóc, che chở, bảo bọc, nuôi dưỡng, để chúng ta có thể là chúng ta trong hiện tại.
.
Kỳ diệu là vậy, trước mỗi cuộc sinh thành là hài nhi được nằm trong lòng mẹ hơn 9 tháng, mẹ thở cho mẹ mà mẹ cũng thở cho hài nhi, mẹ ăn uống cho mẹ thì mẹ cũng ăn uống cho hài nhi, mẹ ngủ nghỉ là mẹ cũng ngủ nghỉ cho con. Và kỳ diệu thay thân thể của mẹ và thân thể của hài nhi là một, thân thể của mẹ ôm trọn thân thể của hài nhi, thân thể của mẹ bao bọc bên ngoài cho thân thể của hài nhi được an toàn. Nằm chơi trong thân thể của mẹ, hài nhi được an toàn và ấm áp, dễ chịu và thoải mái biết bao.
.
Kỳ diệu là vậy, trước mỗi cuộc sinh thành là hài nhi được nằm trong lòng mẹ hơn 9 tháng. Thân thể của hài nhi là một phần của thân thể mẹ, hài nhi nằm chơi trong thân thể của mẹ, an toàn ấm áp, dễ chịu và thoải mái biết bao. Và kỳ diệu thay, tuy con chia sẻ chung một thân thể với mẹ nhưng khi lạnh thì mẹ lạnh trước con, khi nóng nực thì mẹ nóng nực trước con, khi đói thì mẹ đói trước con, khi khát thì mẹ khát trước con; và những khi phải khổ não, đau đớn thì mẹ lại khổ não, đau đớn trước con.
.
Không kỳ diệu sao được khi sinh con ra đau nhức trăm bề mà lòng mẹ cứ vui mừng sung sướng chỉ mong con mình vẹn toàn, không kém khuyết. Không kỳ diệu sao được, khi con bò chơi sẩy tay bật té, chưa chắc con đã thật đau mà lòng mẹ đã đau rồi. Không kỳ diệu sao được khi lớn lên con đi đâu, chưa chắc con đã gặp điều bất ổn mà lòng mẹ đã bất ổn, thắc thỏm lo âu rồi.
.
Thời con gái, mẹ cũng đã từng tung tăng nhí nhảnh, vui chơi với bạn bè, trang lứa; nhưng khi đã có con rồi thì mẹ đã bỏ đi biết bao nhiêu cuộc vui chơi thỏa thích, khi đã có con rồi mẹ đã từ chối biết bao nhiêu lời mời gọi, khi đã có con rồi mẹ đã xa cách biết bao nhiêu là bạn bè trang lứa thân thương. Thời con gái mẹ cũng xăm xoi gương lược, chỉnh chu mặt mũi tóc tai, quần áo tươm tất; nhưng khi đã có con rồi mẹ bổng gương lược xuề xòa, áo quần qua quýt cho xong. Hầu như tất cả cái tốt đẹp mượt mà tươi tắn mẹ dồn lại rồi chuyển hóa chúng thành tình cảm thương yêu chăm chút cho con, mong cho con được 10 phần chu tất.
.
Khi lớn khôn con thi trường học, mẹ thi trường đời; mỗi một lần con vấp ngã là một lần con có mẹ an ủi, dỗ dành; nhưng mỗi khi mẹ phải thua cuộc, thất bại giữa chợ đời mà con thơ ngây thì mẹ một mình âm thầm buồn tủi. Lớn lên con đi vào chốn chợ đời, khi con làm ăn phát đạt giàu có, tiền của đủ đầy thì có biết bao nhiêu người đón rước chào mừng nhưng khi con thua lỗ nghèo thiếu thì mẹ sẽ là người cuối cùng còn lại chia sẻ đắng cay nghèo khổ với con. Ở chốn chợ đời, khi con cừ khôi giỏi dang thì có biết bao nhiêu người hoan hô cổ vũ; nhưng khi con tỏ ra sút kém vụng về thì mẹ sẽ là người nâng đở khích lệ cho con. Thậm chí mẹ còn cảm thấy mình có lỗi khi không khéo sinh ra đứa con có tài năng thiên phú giỏi dang hơn người. Ở chốn chợ đời, khi con có chức quyền địa vị thì có biết bao nhiêu người xúm xít tâng bốc, kết thân; nhưng khi con mất chức, hết quyền thì mẹ sẽ là người đồng cảm thương yêu. Ở chốn chợ đời, khi con vang danh hiển đạt, cao sang, thì có biết bao nhiêu người tỏ ra gắn bỏ thủy chung nhưng khi con sa cơ tù tội thì mẹ sẽ là người thăm nuôi chia sẻ với con những phút giây tủi cực.
.
Mẹ là biểu tượng của bình dị, đơn sơ; tình cảm của mẹ dành cho con, nuôi dưỡng thân thể và tâm hồn con lành mạnh; tình cảm của mẹ được hình dung như chén xôi, như nải chuối. Mẹ là biểu tượng của mênh mông, sâu thẳm, như cái mênh mông sâu thẳm của đại dương. Tình cảm của mẹ dành cho con dìu dặt thiết tha và ngọt ngào bất tuyệt. Mẹ là biểu tượng của trời xanh vòi vọi trên cao; mẹ là biểu tượng của ánh trăng lung linh vằng vặc đêm Rằm, tình cảm của mẹ dành cho con thanh thoát, chơi vơi làm cho những thước đo, những phép tính mà con học ở nhà trường, đo hoài, tính hoài, vói hoài không tới. Mẹ là biểu tượng của niềm vui cho con trẻ, là con diều biếc, là cánh đồng lúa thơm tho, là con sông nhỏ, là cả quê hương Việt Nam yêu dấu.
.
Mẹ bình dị đơn sơ như vậy, mẹ mênh mông sâu thẩm như vậy, mẹ dìu dặt thiết tha như vậy, mẹ êm đềm trời biển như vậy nên dù ở độ tuổi nào, mất mẹ con cũng thấy hụt hẫng hoang mang, thảng thốt:
.
Chung quanh ai cũng khóc
Im lặng tôi buồn thôi
Để dòng nước mắt chảy
Là vơi khổ đi rồi
Hoàng hôn phủ lên mộ
Chuông chùa nhẹ rơi rơi
Con biết con mất mẹ
Là mất cả bầu trời
.
Ngày xưa còn mẹ, mỗi lần tựu trường, lễ tết, con được may áo mới. Hết buổi học, tan trường, mẹ đợi sẳn đón con về. Ngày nay không còn mẹ thì ai đón con về, ai sắm quần áo mới cho con khi mùa xuân đến.
.
Mẹ vắng rồi, ai đón đợi
Mỗi hoàng hôn đi học về
Mẹ vắng rồi quần áo mới
Mỗi xuân hồng hết sum xuê
.
Ngày xưa còn mẹ, mỗi khi con ngủ, có tiếng mẹ ầu ơ dí dầu; con ngủ mê ác mộng, có tiếng mẹ dục giả lay gọi con tỉnh dậy; mỗi khi con tủi buồn thua thiệt có tiếng mẹ vỗ về. Ngày nay không còn mẹ, thì ai ru con ngủ, ai lay gọi trong cơn mộng dữ và ai vỗ về khi con khóc.
.
Mẹ đi rồi, ai ru ngủ
Giữa cơn mê ai gọi hồn
Mẹ đi rồi, ai ấp ủ
Khi khóc buồn, ai dỗ hôn.
.
Mẹ là áo mới xum xuê, mẹ là đón đưa chờ đợi, mẹ là tiếng ầu ơ ví dầu, mẹ là tiếng lay gọi thiết tha trong cơn ác mộng, mẹ là vỗ về an ủi trong những lúc con tuổi buồn than khóc. Mẹ là vô vàn công ơn, vô vàn tình nghĩa dưỡng nuôi, che chở suốt cuộc đời của con, không có dạng công ơn, tình nghĩa nào có thể so sánh ngang bằng. Ở đời nhiều lắm những trường hợp ‘giàu đổi bạn, sang đổi vợ chồng’. Nhiều lắm vợ chồng tình nghĩa phôi pha phân cách vì cảnh sang hèn khác biệt; nhiều lắm những bằng hữu chia tay vì giàu nghèo khác biệt. ‘Xưa trắng tay còn xưng bằng hữu, giờ giàu sang quên kẻ tâm giao...’ Giữa trùng trùng những dạng tình cảm toan tính so đo như vậy, tình mẹ càng cao vòi vọi, càng sâu thăm thẳm, càng êm ái dìu dặt như đồng lúa chiều, càng ngọt ngào thơm tho như chuối ba hương, như sôi nếp một, như đường mía lao.
.
Mẹ là vô vàn công ơn, vô vàn tình nghĩa, dưỡng nuôi che chở suốt cuộc đời của con, không có dạng công ơn tình nghĩa nào có thể so sánh ngang bằng. Giữa biển đời có nhiều giông bão, sấm sét, mẹ là bến đỗ bình yên, an toàn mỗi khi con tìm về với mẹ. Giữa biển đời có nhiều gió dữ quay cuồng làm cho cuộc đời con nhiều lần lạc hướng hoang mang thì mẹ là kim chỉ nam, là ánh đuốc soi đêm để con đi theo đường ngay lối thẳng thiện lành trong sạch mỗi khi con tìm về với mẹ.
.
Một điều xót xa hổ thẹn cho những bậc xem mình là kẽ sĩ, là hào kiệt, là kinh bang tế thế, đứng ra bảo ban, chỉ giáo mọi người về văn hóa này, đạo lý kia, triết học nọ, mà bản thân không biết thương yêu đấng sinh thành, không biết đền đáp công ơn cha mẹ. Trên thế gian có nhiều nền triết học, nào là triết học duy tâm, duy vật, nào là triết học duy nghiệm, duy linh... nhưng theo đạo Phật, không có triết học nào hơn được triết học duy hiếu; hiếu với cha mẹ hiện đời và hiếu với cha mẹ của nhiều kiếp luân hồi là triết học tối thượng. Duy hiếu là triết học tối thượng. Trong đạo Phật, không có văn hóa nào hơn được văn hóa biết ơn và đền ơn, trước tiên là biết ơn và đền đáp công ơn trời biển của cha mẹ. Văn hóa hiếu nghĩa là văn hóa tối thượng. Trong nhà Phật không có đạo lý nào hơn được đạo lý làm con, nói gọn là đạo con. Đạo Phật trong trường hợp này cũng là đạo lý của dân tộc, hòa vào đạo lý của dân tộc, là một với đạo lý dân tộc.
.
Công cha như núi Thái sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra,
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ Hiếu mới là đạo con.
.
Đạo con tức là đạo làm cho tròn chữ Hiếu. Như chúng ta đã biết đạo làm con không hạn hẹp trong phạm vi đền đáp, đối đãi của mối quan hệ ràng buộc giữa bổn phận cha mẹ và bổn phận con cái. Đạo làm con là đạo thiêng liêng, tình mẹ con là tình thiêng liêng, mà thiêng liêng thì không còn nằm trong phạm vi tính toán, đối đãi, thù tạc, so đo với nhau. Thế mà có những người con hay so đo đong đếm, cân nhắc xem mình phải thương mẹ bao nhiêu là vừa phải, mấy ngày, mấy tháng là đủ số, đủ bổn phận; những người con ấy quên rằng ngày xưa còn bé thơ cha mẹ đâu có tính toán với mình như vậy.
.
Cha mẹ nuôi con như biển hồ lai láng
Con nuôi cha mẹ tính tháng tính ngày
.
Tình mẹ là thiêng liêng của tất cả những gì thiêng liêng nhất, thiêng liêng đến độ đức Phật khẳng định kính thờ, phụng dưỡng cha mẹ ngang bằng với việc kính thờ Phạm thiên, kính thờ bậc đạo sư đời trước. Phật dạy những khi không có Phật xuất hiện ở đời, không có các bậc thánh nhân xuất hiện ở đời thì chúng ta hãy kính thờ cha mẹ, kính thờ cha mẹ có phước đức như kính thờ Phật, chư thánh hiền.
.
Bài kinh Ngang Bằng Với Phạm Thiên dạy như sau: - Những gia đình nào, này các Tỷ kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận ngang bằng với Phạm Thiên. Những gia đình nào, này các Tỷ kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận như các Ðạo sư thời xưa. Những gia đình nào, này các Tỷ kheo, trong ấy, các con cái kính lễ mẹ cha ở trong nhà, những gia đình ấy được chấp nhận là đáng được cúng dường.
.
E rằng những người con không hiểu rõ việc kính thờ, xem kính thờ là chuyện thuộc lĩnh vực tâm linh trừu tượng, đức Phật giảng giải chuyện kính thờ bao gồm cả những hành động săn sóc cha mẹ như tắm rữa, thoa xức cho cha mẹ. Như vậy, kính thờ cha mẹ bằng hành động cụ thể là cung cấp thức ăn vật uống cho cha mẹ, sắm sửa quần áo, gường gối cho cha mẹ. Một điều cần được nhấn mạnh nơi những người con hiếu thảo là an trú cha mẹ trong Chánh pháp, dẫn dắt cha mẹ về đường ngay lối thẳng, thiện lành trong sạch.
.
3. Chữ hiếu mở rộng:
Đạo Phật từ trong nền tảng tư tưởng sâu xa đến những biểu hiện cụ thể trước mắt và suốt dòng lịch sử truyền bá có thể gọi nôm na là đạo trải lòng, tấm lòng của người mẹ. Vì vậy đạo Phật vô cùng khắn khít với đạo Hiếu. Đạo Phật khắn khít với đạo Hiếu đến độ hình thành phương châm: .
.
Tâm Hiếu là tâm Phật. Hạnh Hiếu là hạnh Phật.
.
Với trái tim từ mẫu và trí tuệ của bậc đạo sư, đạo Phật thấy rằng chữ Hiếu cần phải được mở. Tất cả cách nhìn cục bộ, hạn hẹp, nhỏ nhen đều không phù hợp với đạo Hiếu trong đạo Phật. Không thể chỉ Hiếu với người mẹ mà không quan tâm gì đến những người chung quanh mẹ. Hiếu với mẹ theo nghĩa rộng thì bao hàm cả việc nghĩ đến những người khác. Gồm cả cha mẹ thì có 6 người mà chúng ta phải quan tâm trong cuộc đời.
.
Cha mẹ thuộc về phương Đông,
Từ xưa khuya sớm khổ công vì mình.
Phương Nam - thầy tổ nghiêm minh
Khai thông nẽo đạo, tánh linh vun bồi.
Phương Tây chồng vợ kết đôi,
Nếp nhà gìn giữ trọn đời sắc son.
Bạn bè phương Bắc keo sơn,
Giúp nhau đúng lúc, khuyên lơn nẽo lành.
Phương Dưới, thân phận mõng manh,
Với người giúp việc lòng lành thi ân.
Phương Trên, ẩn sĩ, thượng nhân,
Siêng năng lễ bái, ân cần viếng thăm.
Sáu phương ứng với một tâm
Kính trên nhường dưới trăm năm yên lành.
Không còn hiểm nạn chung quanh
Nhơn thiên hoan hỷ chân thành tán dương.
.
Bài kệ trên đã tóm tắt một câu chuyện về phong tục đảnh lễ 6 phương ở Ấn Độ cổ đại và được ghi lại trong Kinh Trường bộ. Điều thú vị là Đức Phật tiếp nhận phong tục này và đưa vào phong tục này một ý nghĩa mới, một chiều kích mới, bao quát hết mọi người. Đảnh lễ 6 phương trong Đạo Phật có nghĩa là kính trọng 6 người. Người đầu tiên dĩ nhiên là (1) Cha mẹ. Cha mẹ là hướng Đông; sư trưởng là hướng Nam; vợ chồng là hướng Tây; bạn bè là hướng Bắc; Nô bộc là phương dưới; và những bậc hiền triết là phương trên. Thật ra, cốt lõi của chữ Hiếu là trái tim nhân hậu, biết kính trên nhường dưới. Như vậy hiếu với cha mẹ thì đồng thời phải đối xử tử tế, có tình có nghĩa trước sau nhân hậu với (2) thầy tổ và sư trưởng, sống có tình có nghĩa trước sau nhân hậu tử tế với (3) vợ chồng, sống có tình có nghĩa trước sau nhân hậu tử tế (4) với bạn bè, sống trước sau nhân hậu tử tế với (5) nô bộc, người ăn kẻ ở, và cuối cùng sống trước sau nhân hậu tử tế với (6) những bậc trên trước.
.
Như vậy chúng ta thấy rằng là đạo trải lòng, tấm lòng của người mẹ. Đạo Phật càng truyền rộng và lan xa chừng nào thì càng thể hiện những phẩm chất của trái tim người mẹ và càng khắn khít với đạo nghĩa biết ơn và nhớ ơn chừng ấy. Đồng thời, đạo Phật cũng góp phần làm cho đạo Hiếu có thêm chiều kích cao xa và biên độ rộng lớn hơn nữa. Đạo Hiếu trong đạo Phật không những đối với cha mẹ đời này mà còn tính đến cha mẹ của nhiều đời, cha mẹ của nhiều kiếp luân hồi. Đạo Hiếu trong đạo Phật không những đối với con người mà còn tính đến vạn loại sinh linh đang sống trong lầm lỗi vô minh cần phải được bao dung bằng trái tim của người mẹ và soi sáng bằng trí tuệ của bậc đạo sư.
.
Kính thưa quý vị,
Ở đời, xui rũi thì nhiều, may mắn thì ít. Ai sống trong đời mà không muốn có may mắn. May mắn có nghĩa là làm ít mà được nhiều, làm nhiều thì được nhiều hơn. Có trường hợp may mắn hầu như không làm gì mà phước lộc tự tìm đến. Sống trong đời còn cha, còn mẹ quả là một may mắn. Thử nhìn vào thế giới có nhiều chiến tranh và bệnh tật, thiên tai và nhân họa này thì có bao nhiêu người còn đủ cả cha lẫn mẹ. Còn đủ cả cha lẫn mẹ quả là một vận may.
.
Mặt khác, đạo Phật trong ý nghĩa là đạo Hiếu mà đạo Phật là đạo hành động thì đạo Hiếu trong đạo Phật là đạo Hiếu hành động. Vì vậy chúng ta làm được điều gì có hiếu với cha mẹ phải xem đó là vận may, là một thành công trong kiếp làm người. Chúng tôi xin nhấn mạnh một lần nữa rằng chúng ta làm được bất cứ điều gì có hiếu với cha mẹ thì phải xem đó là vận may, là một thành công trong kiếp làm người. Chúng tôi xin nhấn mạnh vận may ở đây là vận may tối thượng, thành công ở đây là một thành công lớn, có thể nói là thành công lớn nhất của kiếp làm người.
.
Ở đây, chúng ta hãy nghe một đoạn khác trong bài kinh Ngang bằng với Phạm thiên: - Phạm Thiên, này các Tỷ kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Các Ðạo sư thời xưa, này các Tỷ kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Ðáng được cúng dường, này các Tỷ kheo, là đồng nghĩa với cha mẹ. Vì cớ sao? Giúp đỡ rất nhiều, này các Tỷ kheo, là cha mẹ đối với con cái, nuôi chúng lớn, dưỡng dục chúng, giới thiệu chúng vào đời.
.
Mẹ cha gọi Phạm Thiên,
Bậc Ðạo sư thời trước
Xứng đáng được cúng dường
Vì thương đến con cháu
Do vậy, bậc Hiền triết
Ðảnh lễ và tôn trọng
Dâng đồ ăn đồ uống
Vải mặc và giường nằm
Thoa bóp (cả thân mình)
Tắm rửa cả tay chân
Với sở hành như vậy,
Ðối với mẹ và cha
Ðời này người Hiền khen
Ðời sau hưởng Thiên lạc
.
Làm được như vậy, chúng ta sẽ đầy đủ tự tin trong cuộc sống và không còn phải băng khoăng đối với bổn phận làm con:
.
Cha sinh ta, mẹ nuôi ta.
Nhớ ơn cha mẹ xót xa tấc lòng,
Thương vì khó nhọc ẳm bồng,
Ân sâu muốn trả hỏi lòng làm sao?
.
Kính chúc quý vị thân tâm thường lạc, sống theo chánh tín, chánh pháp để trọn đời là những người con, người cháu hiền hiếu; những cô dâu, chú rễ thảo ngay; những công dân gương mẫu, góp phần xây dựng tổ quốc, xã hội Việt Nam phồn vinh và hạnh phúc. Kính chúc một mùa Vu lan nhiều ý nghĩa thăng hoa cho mỗi một quý vị và cho cả dân tộc Việt Nam. Nguyện cầu chư Phật, chư Bồ tát mười phương ban phước báo, ân lành cho quý vị cùng gia đình quý quyến. Nguyện cầu cho thế giới hòa bình, nhân sinh an lạc.
.
Nam Mô Đại Hiếu Mục Kiền Liên Bồ Tát.
Cảm ơn sự chú ý lắng nghe của quý vị.
.

Tuesday, August 28, 2007

Phat giao o Afghanistan thoi xua

.
Sơ lược về Phật giáo ở Afghanistan thời xưa
Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Afghanistan phiên âm theo Trung Quốc là A-phú-hãn là một trong những vùng cư dân có mặt sớm nhất trên quả địa cầu và được những tác phẩm văn học cổ của Ấn-độ, Hy-lạp và Trung Quốc đề cập và miêu tả. Lãnh thổ của Afghanistan ngày nay có hình dáng một chiếc lá nằm ngay trung tâm của Trung Nam Á, tiếp giáp biên giới với nhiều nước, phía Đông và Nam tiếp giáp biên giới với Pakistan (Ba-cơ-tư-thản), phía Tây giáp với Iran (Y-lãng), phía Bắc giáp với Turmenistan (Thổ-khố-man), Uzbekistan (Ô-tư-biệt-chỉ) và Tajikistan (Tháp-cát-chỉ) thuộc Liên Bang Xô-viết củ. Afghanistan còn có 200 dặm giáp với Jammu và Kasmir và 50 dặm giáp với Trung Hoa. Thủ đô của Afghanistan là thành phố Kabul.
.
Thật ra danh từ Afghanistan chỉ được gọi chính thức từ thế kỷ thứ 18 sau khi sắc dân Afghan [những sắc dân đồng đại là Taziks, Turks, Mongols, Indo-Aryans, Uzbek, Hazara...) đã chinh phục và thiết lập được một nền cai trị trên lãnh thổ nầy. Ngược dòng lịch sử chúng ta biết rằng sắc tộc Afghan xuất hiện vào khoảng thế kỷ thứ 9. Nói đúng hơn Afghan là một hổn hợp gồm nhiều sắc dân khác nhau cư trú trên những vùng đất biệt lập với nhau thuộc khu vực Hindu Kush (mạn phía Tây của dãy Hy-mã-lạp-sơn). Miền Bắc là khu vực của sắc tộc Udyàna hay Oddiyana. Miền Trung là khu vực của sắc tộc Kapisa và Miền Tây Bắc là khu vực của sắc tộc Balhika.
.
Những di tích của Phật Giáo hoặc rãi rác khắp nơi khắp nơi trong đất nước Pakistan hoặc tập trung ở những khu sinh hoạt sầm uất, đặc biệt là khu vực Bamiyan nơi có hai pho tượng Phật cổ bằng đá vĩ đại nhất thế giới. Bamiyan cũng nổi tiếng vì những kiến trúc bằng đá tạo dựng dọc theo sườn núi. Người ta đã tìm thấy dấu vết của trên 20 nghìn kiến trúc như vậy. Thật ra chưa có ai bỏ công ra đếm để có con số chính xác là bao nhiêu. Nhưng con số trên 20 nghìn kiến trúc trên những vùng núi và̀ chưa kể một số lượng lớn hơn những cơ sở Phật Giáo ở những vùng cao nguyên, đồng bằng và thị tứ mà ngày nay đã bị xóa trắng không còn vết tích gì cả đủ để chứng minh rằng Afghanistan có thời là một trong những trung tâm Phật Giáo lớn nhất trong thời cổ.
.
Từ lâu chính quyền Hồi Giáo Afghanistan theo đuổi chính sách bế quan tỏa cảng thủ cựu nên việc khảo cổ không thể tiến hành cho mãi đến năm 1922 thì một đoàn khảo cổ người Pháp mới bắt đầu được phép đến. Hầu hết những hiểu biết về quá khứ Phật Giáo ở đất nước Afghanistan đều nhờ đoàn chuyên gia nầy thông tin mà có được.
.
Tuy rằng Phật Giáo phát triển mạnh mẽ ở Afghanistan, cụ thể là khu vực Gandhara ở miền Đông, Kandahar ở Miền Nam, Balkh ở Miền Bắc, Tukhar ở Miền Đông Bắc vào những thập niên đầu Tây lịch nhưng chúng ta cũng biết rằng những lời dạy của Đức Phật đã được khẩu truyền ở Afghanistan sớm hơn thời gian trên rất nhiều. Tuần lễ thứ bảy sau khi đức Thế tôn thành đạo dưới cội Bồ-đề thì có hai thương gia tên là Tapassu và Bhallika từ Orissa (tên xưa là Kalinga thuộc miền Cực Đông Ấn Độ) trên đường về quê nhà, đi ngang qua chổ đức Phật ngự và có được cơ hội cúng dường đức Phật lần đầu tiên. Sau khi cúng dường Thế Tôn xong Tapassu và Bhallika xin được làm đệ tử Phật và trở thành hai thiện nam quy y Nhị Bảo vì khi ấy chưa có Tăng Đoàn. (Đức Phật và Phật Pháp, Thành Hội Phật Giáo Thành Phố HCM, 1991, tr. 77-78). Tapassu và Bhallika gốc người xứ Balhika, hiện nay là thành phố Balkh, một thành phố cổ kính và phồn thịnh của Afghanistan. Như vậy chính hai người thiện nam nầy đã mang lời dạy của Phật đến Afghanistan đầu tiên. Sau đó Bhallika trở sang Vương Xá xuất gia thọ giới Tỷ-kheo rồi lại trở về quê hương Afghanistan để hoằng truyền Phật Pháp. Dân ở xứ Balkh có xây dựng một tu viện để dâng cúng cho ông và Tăng đoàn. Đây cũng là tu viện đầu tiên ở Afghanistan có trong thời Phật.
.
Khoảng 100 năm sau khi đức Thế Tôn nhập Niết-bàn, một số Tỷ-kheo thuộc Ma-ha-tăng-kỳ-bộ du hóa vào Afghanistan hoằng đạo và xây dựng được nhiều cơ sở ở Udyàna, vùng đất cực Đông của Afghanistan. Như vậy giáo đoàn Ma-ha-tăng-kỳ-bộ đã là giáo đoàn đầu tiên hoằng truyền Phật Pháp theo tuyến đường du hóa của Đạo Phật vào các quốc gia Trung Nam Á. Khoảng một thế kỷ sau đó dưới triều đại của vua A-dục trưởng lão Maharakkhita thuộc Thượng Tọa Bộ cũng đã đến hoằng truyền Phật Pháp nơi đây. Thực tế lịch sử cho biết Phật Giáo đã bám rễ sâu dần vào đất nước Afghanistan và thấm nhuần vào tâm hồn của các sắc dân ở đất nước xinh đẹp nầy. Phật Giáo thật sự trở thành một tôn giáo chủ đạo trải qua một thời gian kéo dài cả ngàn năm cho đến khi tất cả những quốc gia Trung Á nầy bị đoàn quân hùng mạnh của Hồi Giáo xăm lăng và thiết lập một bộ máy cai trị rộng khắp vào thế kỷ thứ 10.
.
Theo ngài Huyền Trang thì vương quốc cổ Bamyan kéo dài khoảng 2 ngàn dặm từ Đông sang Tây và khoảng 300 dặm từ Bắc xuống Nam, thủ đô nằm trên triền dốc cao của một dãi đồi mà phía Bắc có một vực núi rất sâu và hiểm trở. Lòng yêu chuộng Phật Giáo và tâm hồn chơn chất của người dân ở Bamyan được những sắc dân lân bang ca ngợi. Ngài Huyền Trang kể rằng lúc ngài đến đó thì nơi đó đã có 10 ngôi tịnh xá và khoảng một ngàn vị Tỷ-kheo, tất cả đều tu theo tông phái Xuất Thế Thuyết Bộ, một bộ phái quan trọng thuộc Ma-ha-tăng-kỳ-bộ. Xuất Thế Thuyết Bộ chủ trương rằng tất cả các pháp thế gian chỉ là những hiện tượng mà thôi chớ không phải là thực tại. Thực tại tối hậu vượt ra ngoài những pháp mà con người có thể nhận thức được ở thế gian. Ngoài pho tượng Phật nổi tiếng cao 55 mét và một pho tượng khác cao 35 mét, trên những đỉnh đồi xứ Bamyan còn có di tích của những ngôi tháp cổ kính. Dưới những sườn đồi vẫn còn những hang động lớn nhỏ khác nhau mà giới tu sĩ Phật Giáo ngày xưa dùng làm điện Phật, thính đường hay am thất. Dọc theo vách núi là những tượng Phật được điêu khắc thẳng vào đá núi. Ngoài ra còn rất nhiều di tích của những ngôi tịnh xá và những tượng Phật nhỏ hơn.
.
Thành phố Hadda và Jallalabad cách thủ đô Kabul 177 cây số về phía Đông của Afghanistan là hai địa danh nổi tiếng là có nhiều chùa tháp và tranh tượng Phật Giáo thuộc trường phái nghệ thuật Gandhara. Thành phố Kapisa của Afghanistan cũng đã từng là một thủ đô của đại vương triều Kusana mà vua Ka-nị-sắc-ca là vị vua nổi tiếng trong việc hộ trì và hoằng dương Phật Pháp. Kaniska cũng có khi được viết là Kanishka (phiên âm theo Trung Quốc là Ka-nị-sắc-ca) là vị đại đế vĩ đại nhất của vương triều Kushan. Vương quốc Kushan bao gồm phía Bắc của lục địa Ấn-độ, toàn bộ Afghanistan và Bắc Kasmir thuộc Trung Á. Kaniska không nổi tiếng vì vương quốc rộng lớn mà mình trị vì mà nổi tiếng là một người hộ trì Tam Bảo vĩ đại. Hầu hết những hiểu biết về vị vua nầy đều nhờ vào những nguồn tư liệu của Trung Quốc, đặc biệt là những tư liệu Phật Giáo. Trong 23 năm trị vì, ngoài việc xây dựng chùa tháp và đào tạo tăng tài Kaniska thật sự nổi tiếng là một người Phật Tử tại gia vĩ đại là nhờ vào việc ông ta đứng ra triệu tập cuộc kiết tập kinh điển lần thứ tư tại xứ Kasmir. Chính cuộc kiết tập kinh điển lần nầy đã đánh dấu sự bắt đầu hưng khởi của Phật Giáo Đại Thừa. Theo nguồn tư liệu Trung Quốc thì tại cuộc kiết tập nầy những bản sớ giải của Thánh điển Phật Giáo được biên tập và chạm khắc lên những bảng bằng đồng. Ngày nay di tích của hoàng cung vua Ka-nị-sắc-ca đã được các nhà khảo cổ tìm thấy. Đó là một khu vực rộng lớn bao gồm quận Shotorak và cả Paitawan ngày nay trong đó có một hệ thống lầu các cung điện tráng lệ bên cạnh là những tháp miếu và những tu viện to lớn.
.
Ngoài dấu vết những bản kinh bằng đồng của vua Kaniska còn có những bia ký của vua A-dục còn tồn tại ở Afghanistan. Những bia đá trải qua trên 2000 năm vẫn còn đó nhắc chúng ta rằng Afghanistan có thời là một châu quận trong vương quốc mênh mông của vua A-dục, vị vua sau cùng và vĩ đại nhất của vương triều Mauriya. Vương triều nầy kéo dài khoảng 136 năm, thủ phủ là Pataliputra (Hoa Thị Thành) nằm trong khu vực giao lưu giữa sông Hằng và sông Son. Sau khi Alexander đại đế băng hà thì Candra Gupta vị thái tổ của triều đại Maurya xây dựng nên một vương quốc rộng rãi bao gồm toàn bộ khu vực Trung và Bắc Ấn-độ. Chính trong thời gian vua A-dục trị vì thì cuộc kiết tập kinh điển lần thứ ba được tiến hành để đọc tụng và xác minh lại những lời dạy của Đức Thế Tôn. Asoka là một Phật Tử rất tích cực trong việc hộ trì và nổ lực trong việc hoằng dương Chánh Pháp. Ông đã gởi các giáo đoàn truyền giáo đi đến nhiều nơi, nhiều địa phương và nhiều vùng đất xa xôi để hóa đạo. Có người cho rằng một trong những đoàn truyền giáo thời vua A-dục đã đến Nam Việt Nam hóa đạo và viên tịch trong vùng núi Ba Thê, Châu Đốc. Trong nước thì vua A-dục sử dụng các phương tiện truyền thông đại chúng để giảng dạy giáo lý và cho chạm khắc những bài kinh chính yếu của Phật Giáo trên những văn bia và những trụ đá ở những nơi tôn nghiêm. Tượng con sư tử trên một cột đá thời vua A-dục đã trở thành quốc huy của Nước Cộng Hòa Ấn-độ ngày nay.
.
Địa phận Haibak (có tên cũ là làng Sa-môn) còn một ngôi tháp bằng đá nguyên khối với con đường thiền hành (Pradaksinapatha) chung quanh là độc nhất vô nhị trên thế giới. Tất cả những di tích còn lại trong lãnh thổ Afghanistan, những ngôi chùa Phật, những hệ thống tu viện, tăng xá, tháp, miếu, điện, đường... những di tích mặc dù không còn nguyên vẹn nhưng đủ nói lên sự thật rằng A-phú-hãn đã có thời là một quốc gia trù phú và hưng thịnh của Phật Giáo trong quá khứ.
.

Bamyan, Phat Giao thoi xua

.
Bamyan, xứ sở của Phật Giáo thời xưa
Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Bamyan là một thung lũng xanh mướt vì đất đai phì nhiêu mầu mở nằm cách thủ đô Kabul của Afghanistan 80 dặm về phía Tây Bắc. Bamyan ngày nay là nơi có rất nhiều những hang động là những điện thờ và những giảng đường vĩ đại do người Phật tử ngày xưa đục vào sườn núi tạo thành. Di tích của những ngôi tinh xá, chùa chiền và tháp cổ chứng tỏ rằng thung lũng Bamyan đã là chứng nhân của một thời hưng thịnh của Phật Giáo tại đây. Đất nước Afghanistan và đặc biệt là Bamyan đã trải qua một thời kỳ huy hoàng trong lịch sử Phật Giáo với những dấu tích không phai mờ thế mà giờ đây người ta không tìm thấy đâu một người Phật tử còn sót lại.
.
Trên những đỉnh đồi xứ Bamyan vẫn còn di tích của những ngôi tháp cổ kính. Dưới những sườn đồi vẫn còn những hang động lớn nhỏ khác nhau mà giới tu sĩ Phật Giáo ngày xưa dùng làm điện Phật, thính đường hay am thất. Bamyan vẫn còn được nhắc tới trong sách vở Phật Giáo là nhờ vào những di tích và những tượng Phật được điêu khắc vào vách núi. Ngoài ra còn rất nhiều di tích của những ngôi tịnh xá và những tượng Phật nhỏ hơn.
.
Vào năm 630 ngài Huyền Trang đã đến viếng Bamyan và chính ngài Huyền Trang đã ghi lại những điều mà ngài đã tai nghe mắt thấy. Theo ngài Huyền Trang vương quốc Bamyan kéo dài khoảng 2 ngàn dặm từ Đông sang Tây và khoảng 300 dặm từ Bắc xuống Nam, thủ đô nằm trên triền dốc cao của một dãi đồi mà phía Bắc có một vực núi rất sâu và hiểm trở. Lòng yêu chuộng Phật Giáo và tâm hồn chơn chất của người dân ở Bamyan được những sắc dân lân bang ca ngợi. Ngài Huyền Trang kể rằng lúc ngài đến đó thì nơi đó đã có 10 ngôi tịnh xá và khoảng một ngàn vị Tỷ-kheo, tất cả đều tu theo tông phái Xuất Thế Thuyết Bộ, một bộ phái quan trọng thuộc Đại Chúng Bộ. Xuất Thế Thuyết Bộ chủ trương rằng tất cả các pháp thế gian chỉ là những hiện tượng mà thôi chớ không phải là thực tại. Thực tại tối hậu vượt ra ngoài những pháp mà con người có thể nhận thức được ở thế gian.
.
Cho đến thế kỷ thứ 8 thì những hoàng tử của xứ Bamyan bắt đầu rời khỏi Phật Giáo và cải đạo theo Hồi Giáo dưới triều đại Abbasid (754-785) dù vậy việc đập phá tượng Phật lúc ấy không hề xảy ra. Những ngôi tinh xá và những pho tượng Phật vĩ đại vẫn còn tồn tại cho đến thế kỷ thứ 9. Ngày nay tại xứ Bamyan vẫn còn đứng đó những pho tượng Phật chạm khắc bằng đá lớn nhất thế giới trong thời cổ đại cũng như thời hiện đại. Một pho tượng cao 173 feet (trên 52 mét) và một pho tượng khác cao 120 feet (trên 36 mét) [1 foot = 30, 48 cm]. Có lẽ vì một pho tượng làm bằng đá đỏ và một pho tượng làm bằng đá trắng nên người dân ở đây gọi đó là tượng “Bụt Đỏ” và tượng “Bụt Trắng”. Những pho tượng nầy có thể có niên đại trong khoảng từ thế kỷ thứ ba đến thế kỷ thứ sáu Tây Lịch.
.
Xứ sở Bamyan xinh đẹp đã từng làm mê mẫn tấm lòng của khách hành hương. Mặc dầu việc hành trì theo giáo lý nhà Phật đã chấm dứt cách đây hơn 11 thế kỷ những khách hành hương vẫn còn có thể cảm nhận một từ lực tĩnh lặng mà việc hành trì đó tạo nên. Bạn sẽ có được cảm nhận đó nếu bạn đứng bên một sườn đồi của xứ Afghanistan đưa mắt nhìn sang thung lũng Bamyan xinh đẹp đang được ánh trăng nhuộm vàng bằng một màu vàng dịu dàng và thanh khiết. Phía bên kia bạn sẽ thấy còn đó những gian am thất làm bằng đá và vẫn còn đứng đó những bức tượng Phật trong một bầu không khí thanh thản êm đềm. Nếu bạn trầm mặc chiêm ngưỡng thì một từ lực an lành của Đức Phật sẽ thấm sâu dần vào tâm hồn của bạn.
.

Friday, August 24, 2007

Vong Linh & Le Hoi Vu Lan

.
TỪ QUAN NIỆM VỀ VONG LINH ĐẾN LỄ HỘI VU LAN
Thích Minh Thành Ph.D.
.
Từ thuở xa xưa, trước khi Đức Phật xuất hiện ở đời, Bà la môn giáo đã có quan niệm cho rằng sau khi mệnh chung vong linh không có thân xác, sống vất vưởng, khổ sở suốt một năm trong trạng thái trung gian. Trong trạng thái này, vong linh quấy phá, tìm cách báo cho gia đình phải tổ chức lễ sraddha cầu cúng, nhờ đó mà vong linh sẽ có được một dạng thân tướng mới, nếu không nó sẽ bị tan biến vào hư vô. Với thân tướng mới này, vong linh sẽ gia nhập vào cộng đồng của tổ tiên mình trên cõi trời.
.
Điều khá thú vị là tâm thức của loài người thuở ấy đã mường tượng ra một cuộc hành hình ngang qua những điểm mốc không thời gian vừa hiện thực vừa bay bổng. John Bower đã miêu tả rằng những nghi lễ của Bà-la- môn như lễ sraddha và lễ sapindakarana được cử hành để giúp vong linh người chết không bị tan mất khi bước sang thế giới bên kia. Có một ngã ba đường mà vong linh nào cũng phải đối diện và chọn lựa. Áo nghĩa thư ghi lại như sau: Sau khi chết vong linh của người ta phải đi theo một trong hai con đường: Một, con đường trở thành gia chủ; đó là con đường về phương Nam và khi đi đến cuối đường vong linh sẽ quay trở lại trần gian theo một lộ trình khá phức tạp: Đi theo con đường về phương Nam vong linh sẽ nhập vào đám khói thiêu xác của mình, rồi từ đó trải qua một đêm bay lên phần tối của vầng trăng khuyết trên bầu trời. Trải qua 6 tháng khi mặt trời di chuyển về phương Nam, nương theo đó vong linh đi về thế giới của gia chủ, rồi lại bay lên nhập vào vầng trăng sáng tròn đầy để hưởng phước. Sau khi trú ở cung Hằng cho đến khi hết phước, vong linh lại đi vào không gian, rồi nhập vào gió, khói, sương, mây, mưa, cuối cùng nằm trong cây trái. Khi một người nào đó ăn trái cây thì vong linh nhập vào tinh ba của người ấy rồi đi vào dạ con của người phụ nữ. Cuộc luân hồi lại bắt đầu. Hai, con đường lên thiên giới; đó là con đường về phương Bắc, dẫn đến chổ giải thoát. Những vong linh đi theo con đường về phía Bắc thì nhập vào đám khói bốc lên từ dàn hỏa thiêu xác của mình, rồi nhập vào ánh sáng ban ngày, rồi cũng bay lên phần tối của vầng trăng khuyết. Trải qua 6 tháng khi mặt trời chuyển về phương Bắc vong linh nhập vào mặt trời, mặt trăng và hòa tan vào ánh chớp. Từ đó vong linh được một vị phi nhơn dẫn đi lên cảnh giới của Phạm thiên.
.
Khái niệm vong linh (peta) của Bà la môn được Phật giáo sơ kỳ tiếp nhận sau khi lột bỏ tất cả những yếu tố, những chi tiết thuần túy tưởng tượng, hoang đường và vô bổ. Trong ánh sáng của tuệ nhãn Phật giáo thì vong linh không phải là hoàn toàn không có thân tướng, phải chờ đợi lễ sraddha mới có được thân tướng. Kinh điển Phật giáo ghi lại rằng vong linh tự nó đã là một dạng thân tướng mặc dầu thân tướng này vẫn sống nhờ vào lễ cúng của người thân.
.
Tác phẩm Petavatthu[1] thuộc Kinh tạng Pali đề cập một số vong linh gọi là ‘ngạ quỷ’ sống trong cảnh triền miên đau khổ, ăn uống những thứ dơ bẩn với thân thể tàn tạ, nhớp nhúa. Những vong linh này thường ở hố xí, nghạch cửa, ngã tư, hào nước, vườn rừng hay những bải tha ma để ăn xác chết. Truyền thống Đại thừa miêu tả chúng là một loài quỷ đói khát, bụng to như trống, cổ nhỏ như kim; thức ăn vật uống đi ngang qua cuốn cổ nhỏ như vậy không bao giờ đủ để làm dịu đi cảm giác đói khát nóng bỏng, bức não từng cơn. Petavatthu có cách miêu tả chừng mực hơn về nổi khổ của vong linh; đồng thời, về phương diện tích cực, vong linh trong nhiều trường hợp được so sánh gần ngang bằng với chư thiên có oai lực lớn. Trường hợp nổi bật nhất là dạng vong linh tên là Vimanapeta, tức là vong linh làm chủ nhân của những tòa lâu đài trên cõi trời.
.
Mặc dù những vong linh sống cùng một không gian với loài người nhưng chúng lại thuộc về cảnh giới khác, chiều kích khác, cộng thông với thế giới do Tứ thiên vương cai quản. Thế giới này rất lớn trải rộng từ bề mặt quả địa cầu đến tận đỉnh núi Tu di. Trong thế giới mênh mông và mở rộng này có nhiều dạng phi nhân từ những chủng loại lớn như Dạ xoa, Long thần, Càn thát bà, Khẩn na la, A tu la... đến những loài phi nhân nhỏ như những vị thiên trú ẩn trong gia đình, trên cây lớn, hồ lớn... Khi Phật giáo lan tỏa vào châu Á, phong phú những vị thần thánh địa phương được Phật giáo tiếp nhận rồi hòa nhập vào thế giới mở rộng này.
.
Chúng ta thấy rằng trong Kinh tạng sơ kỳ việc hóa sinh thành một vị thiên hay chỉ là một vong linh dường như có mức độ khác biệt không quá xa về mặt biểu hiện. Nhưng về mặt ý nghĩa, đó chính là hai đối cực trong một bảng quang phổ về hạnh phúc và khổ đau.
.
Theo Phật giáo, khi mệnh chung một người không hóa sinh thành chư thiên mà lại trở thành một vong linh là do khi sống người ấy không biết bố thí cúng dường hoặc đã gieo tạo nhiều nghiệp ác xấu. Thời tiền Phật giáo, điều này được ‘cứu gỡ’ qua nghi lễ tế lửa của Bà la môn. Trong nghi lễ tế lửa, vị chủ tế giúp người chết thực hiện bổn phận bố thí cúng dường ngang qua việc đưa vật cúng vào ngọn lửa linh hiến tế. Sau đó, Phật giáo đã vận dụng tập tục tín ngưỡng sẳn có này với nội dung và ý nghĩa mới, xây dựng truyền thống dâng cúng phẩm vật lên ngôi Tam bảo. Dần dần lễ Vu lan được thiết lập và câu chuyện Mục Kiền Liên cứu mẹ càng lúc càng tỏa sáng, tác động mạnh vào tâm linh của những người con hiếu thảo.
.
Khi tiếp xúc với nền văn hóa trọng chữ hiếu của Trung Quốc và Việt Nam, lễ Vu lan đã thăng hoa thành một lễ hội văn hóa lớn với ý nghĩa trọng tâm là ‘uống nước nhớ nguồn’, nhớ ơn và đền đáp công ơn, nhất là thâm ân sinh thành dưỡng dục của cha mẹ, dù còn hiện hữu trong đời hay đã là những vong linh hay hương linh đã quá vãng. Ngày nay, lễ hội Vu lan đã là điểm son trong đời sống văn hóa của những người con Phật khắp nơi trên thế giới.
.
[1] Việt dịch là Ngạ Quỷ Sự đã không bao hàm được những câu chuyện về Vimanapeta, dạng vong linh có phước đức và oai lực lớn.
.

Monday, August 6, 2007

Le 6 phuong

Đầu nguồn của đạo đức con người
Thích Minh Thành Ph.D.
.

.
Trong một buổi hội thảo chuyên đề “Học Làm Người” được tổ chức tại Nhà Văn Hóa Q1, đường Mạc Đỉnh Chi, chúng tôi nhận thấy quả thật những nỗi bức xúc trước thực trạng đạo đức xã hội xuống cấp là có thực. Vị chủ tọa đã dùng những lời và những ý thật mạnh mẽ để nêu bật vấn đế “đây không còn là vấn đề quan trọng, nguy cấp cần phải quan tâm mà đã là vấn đề ‘sống chết’ của một dân tộc. Hầu như diễn giả nào lên phát biểu cũng ít nhiều đề cập đến những việc cụ thể như học trò đánh thầy, “đâm lủng bụng thầy”[1], con cái không “thăm hỏi mà đòi hỏi cha mẹ”, con chửi mắng và hành hung cha mẹ, “con nít hỉ mũi chưa sạch mà đã nghiên cứu hôn m., hôn k. ...”, những bé gái phải đi phá nạo thai... nạn thuốc lắc, ma túy tràn lan xâm nhập vào cả học đường, nạn bạo hành của trẻ em. Những lời phát biểu với những lý luận chặt chẻ đầy tính thuyết phục với phong cách diễn tả thật hùng hồn và cũng có khi thiên về việc ‘xả bớt’ những bực tức đời thường khi chính diễn giả là nạn nhân hay là chứng nhân đã mục kích những tệ nạn trên.
.
Buổi hội thảo đã thu hút khá đông những người cầm bút vào hàng “trưởng lão” và cả những cây bút trẻ trung cho loại sách học làm người cho thấy sự quan tâm của những bậc cha mẹ, những bậc trí thức của thành phố đối với tình trạng trên. Qua hội thảo người tham dự đều có thể thấy được rằng vấn đề đạo đức của con người là vấn đề “sống chết” của dân tộc nhưng rất tiếc là không diễn giả nào, kể cả tôi trong lúc ấy, nêu lên được một cách rạch ròi và minh bạch điểm xuất phát của đạo đức của con người. Vâng, đạo đức con người phải có điểm xuất phát giống như đầu nguồn của con suối mà cuối nguồn là biển cả mênh mông. Trước khi đạo đức mang tầm cở vũ trụ. Trước khi đối tượng của đạo đức là vạn loại chúng sanh, là tất cả con người trên thế giới hay hạn hẹp hơn là dân tộc, giống nòi Việt Nam thì đối tượng của đạo đức là gì? Hay nói cách khác, điểm xuất phát của đạo đức của một người là gì? Tôi xin tham khảo hai nền đạo lý có truyền thống lâu đời của dân tộc Việt Nam là Phật Giáo và Nho Giáo. Bài kinh tiêu biểu của Phật Giáo về vấn đề đạo đức học của con người trong xã hội là bài ‘Giáo Giới Thi-ca-la-việt’ được cả hai nền văn học Phật Giáo Pali tạng và Hán Tạng ghi lại trong kinh Trường Bộ và Trường A-hàm[2]. Bài kệ quan trọng của bài kinh trên bắt đầu như sau:
.
Cha mẹ là phương Đông,
Sư trưởng là Phương Nam,
Vợ chồng là phương Tây,
Bạn bè là phương Bắc,
Nô bộc là phương Dưới,
Sa-môn, Bà-la-môn,
Có nghĩa là phương Trên.
Cư sĩ và gia đình
Đảnh lễ phương hướng ấy.
.
Để diễn giải thêm cho điểm xuất phát này, bài kinh đã trình bày năm việc mà người con phải thực hiện để cho tròn ‘đạo con’ theo cách nói của câu ca dao Việt Nam mà tôi được học từ Tiểu Học:
.
Công cha như núi Thái Sơn;
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.
.
Năm việc đó là: (1) Nuôi dưỡng cha mẹ; (2) Làm các bổn phận của người con đối với cha mẹ; (3) Gìn giữ nề nếp và truyền thống gia đình, cụ thể là bảo vệ vinh dự và uy tín của gia đình, cúng dường các bậc tu hành phạm hạnh; (4) Bảo vệ, phục hồi, và làm phát triển tài sản thừa tự; và (5) Tổ chức tang lễ thích đáng khi cha mẹ qua đời. Cha mẹ cũng có 5 việc cần làm cho con là: (1) Ngăn chận con làm điều ác; (2) Khuyến khích con làm điều thiện; (3) Dạy con nghề nghiệp; (4) Cưới gả xứng đáng cho con; và (5) Đúng thời trao của thừa tự cho con.
.
Như vậy bài kinh đã cho chúng ta biết đầu nguồn hay điểm xuất phát của đạo lý con người là ‘cha mẹ’. Vâng, tình cảm ngọt ngào, thân ái và thiêng liêng của một hài nhi trứng nước là người mẹ. Ân phước tối thượng mà hầu hết những người con được hưởng là tình mẹ. Một loại tình cảm vô điều kiện đầu tiên và có thể là cuối cùng mà một người có được là tình mẩu tử. Vì vậy thiếu sót đạo đức đối với người mẹ, người đã lao đao, khổ sở, đau đớn để sinh thành, cưng dưỡng con người của mình thì khoan nói đến những dạng đạo đức khác. Thật là đáng ngượng nếu ai đó diễn thuyết một cách hùng hồn về đạo đức đối với vợ chồng, đối với bạn bè, đối với làng xóm, đối với quốc gia, đối với quốc tế, đối với vũ trụ... khi bản thân không có đạo đức đối với hai đấng sinh thành.
.
Với điểm xuất phát được hình thành trên nền tảng giáo lý Phật Giáo đó chúng tôi tham khảo sang chữ hiếu được thể hiện trong Nho Giáo và tác phẩm mà chúng tôi chọn làm tiêu biểu là quyển Nhị Thập Tứ Hiếu của cụ Quách Cư Nghiệp (1277 - 1367). Tác phẩm này được cụ Cử Nhân Lý Văn Phức, một bậc túc nho, diễn ra quốc ngữ bằng thể thơ song thất lục bát.
.
Có một trùng hợp lý thú về mặt tư tưởng giữa Ấn-độ và Trung Quốc qua hai tác phẩm này là: Cả hai đều xem chữ Hiếu đối với cha mẹ là xuất phát điểm của mọi hạnh lành. Tiết đầu tiên trong tác phẩm này kết luận rằng vì chí hiếu mà vua Thuấn cai trị dân Trung Quốc trong 18 năm bằng phương pháp ‘vô tiền khoáng hậu’ là ‘chỉ ngồi gảy đàn, hát khúc Nam phong, mà thiên hạ rất thái bình thịnh trị’[3]. Bỏ qua tính hư cấu của câu chuyện chúng ta thưởng thức được phong thái thảnh thơi của một người con hiếu dù đang sống trong tình trạng có nhiều nỗi lo toan của một ông vua[4]. Kinh Dịch có đoạn “Nghiêu Thuấn thùy y thường, nhi thiên hạ trị”. Nghĩa là không phải làm gì mà tự nhiên thiên hạ được thái bình.
.
Cuối cùng chúng tôi xin được thi hóa đoạn kệ trên để một lần nữa xác tín quan điểm đạo đức học của Đạo Phật và làm quà mọn cúng dường nhân mùa Vu-lan năm nay:
.
Cha mẹ thuộc về phương Đông,
Từ xưa khuya sớm khổ công vì mình.
Phương Nam - thầy tổ nghiêm minh
Khai thông nẽo đạo, tánh linh vun bồi.
Phương Tây chồng vợ kết đôi,
Nếp nhà gìn giữ trọn đời sắc son.
Bạn bè phương Bắc keo sơn,
Giúp nhau đúng lúc, khuyên lơn nẽo lành.
Phương Dưới, thân phận mõng manh,
Với người giúp việc lòng lành thi ân.
Phương Trên, ẩn sĩ, thượng nhân,
Siêng năng lễ bái, ân cần viếng thăm.
Sáu phương ứng với một tâm
Kính trên nhường dưới trăm năm yên lành.
Không còn hiểm nạn chung quanh
Nhơn thiên hoan hỷ chân thành tán dương.
.
[1] Những từ trong ngoặc kép là những câu chữ cụ thể được diễn giả dùng để phát biểu.
[2] Kinh tương đương trong Tạng A-hàm là kinh Thiện Sanh, số 16, tập 1, tr. 555.
[3] Nhị Thập Tứ Hiếu, Quách Cư Nghiệp, dg. Lý Văn Phức, nxb. Văn Nghệ, TpHCM, 1999.
[4] Kinh Tăng Chi nói rằng ông vua là một trong 5 hạng người ngủ ít thức nhiều vì phải ưu tư, trằn trọc.

Sunday, July 15, 2007

Chai dau hanh phuc

Từ vũng bùn ganh ghét
Thể Như



Mẹ chồng ngày nào cũng chì chiết, ganh tỵ vì sắc diện tươi trẻ và thân hình thon thả của cô, nhất là những lần cô đi ca múa, vui chơi về. Sau những năm tháng bị trầm cảm nặng nề, đến lúc không còn chịu đựng nổi, cô gái trẻ tìm đến người có trí uất nghẹn kể lể và bổng buột miệng bảo nếu bà chết thì cô cũng chẳng có gì phải buồn.

Người có trí mỉm cười đôn hậu, trau cho cô một chai dầu khá lớn bảo rằng: “Con hãy thoa xức bà mỗi ngày một lần, mỗi lần vài giọt cho thấm dần dần. Khi chai dầu này cạn, bà già độc ác như lời con kể sẽ ra đi và con sẽ có hạnh phúc.” Tuy ngần ngừ, cô gái vẫn mang dầu về và bắt đầu tìm cách thân thiện, quan tâm đến “kẻ tra tấn” mình lâu nay. Cô xoa bóp thoa xức với lý do là để cho bà đở nhức mõi.
Dù vậy, bà vẫn tiếp tục có những lời mĩa mai, xách mé. Cô gái xuề xòa, vui vẽ pha trò và kiên trì săn sóc cho bà mỗi ngày. Thời gian thắm thoát, chai dầu lưng dần thì những lời cáu gắt vô ơn cũng thưa dần. Một hôm, sau lần xoa bóp thường lệ, bà ôm chầm cô gái, nói lời thương yêu và xin thứ lỗi vì những hiểu lầm trước kia. Cô gái nhận ra mình cũng đã thương yêu bà tự bao giờ.

Nhìn thấy chai dầu sắp cạn, cô hốt hoảng, hối hả đến người có trí kể lại sự tình và xin cứu giúp. Ông mĩm cười lặp lại câu nói ngày trước: “Chai dầu đã cạn, bà già độc ác đã ra đi, con đang có hạnh phúc với người mẹ chồng thân yêu của mình.” (theo Danai Chanchaochai)

Bài học đạo lý:



Một cây bút chuyên viết về phong cách và nghệ thuật ẩm thực thế giới sang Việt Nam du lịch. Lần nọ, ông có dịp hỏi thăm bếp trưởng của một nhà hàng nổi tiếng về món ăn ngon nhất và nhận được câu trả lời: Đó là món ăn “pha chế” với lòng quý mến thương yêu.

Thật ra, những phẩm tính trừu tượng như lòng quý mến thương yêu và những hành động cụ thể như việc chế biến thức ăn trong một mức độ nào đó không hề tách biệt với nhau. Cả hai đan quyện với nhau và hoàn thiện cho nhau. Nói cách khác, ý niệm thương yêu quý mến sẽ thúc đẩy hành động chăm nom săn sóc. Ngược lại, những hành động săn sóc cụ thể sẽ gieo mầm và tưới tẩm cho hạt giống tình cảm thương yêu. Cả hai mặt sẽ tạo thành một vòng tròn phát triển theo chiều hướng tích cực mà không có đầu mối hay điểm xuất phát nhất định nào cả.

Trong câu chuyện, cô gái với sự hổ trợ của người có trí, đã vận hành vòng tròn thương yêu từ điểm xuất phát là những hành động cụ thể: săn sóc cho người mẹ chồng. Nói cách khác, thông thường thì tâm ý dẫn dắt cho hành động nhưng trong câu chuyện hành động lại dẫn dắt tâm ý. Ở đây, hành động tích cực lành mạnh (bất kể mục tiêu là gì) làm phát sinh và cung cấp dưỡng chất cho tâm ý lành mạnh: thương yêu. Như là một quy luật, tình thương và sự quý mến phát triển đến mức chín muồi thì giận hờn và ganh ghét tan biến. Từ vũng bùn của ganh ghét và giận hờn, dưỡng chất thương yêu kết tụ no tròn thì đóa sen hạnh phúc nở ra, tỏa ngát hương thơm.

Bàn thêm:

Một chút tinh ý và một chút can đảm sẽ giúp chúng ta nhận ra rằng tình thương yêu của cô gái và kể cả của người mẹ chồng đều có cơ sở là thương yêu chính bản thân mình (ngã ái). Một điều mà mới nghe thì tâm ý thích một dạng tình cảm mang màu sắc tưởng tượng và tuyệt đối hóa của chúng ta sẽ cảm thấy không dễ chịu chút nào. Nhìn sâu hơn, chúng ta sẽ nhận ra đó là cái không dễ chịu của một tâm hồn còn ngã ái. Chính trong thế giới bề bộn những dạng ngã ái khác nhau như vậy lòng thương yêu tuyệt đối vô ngã của Bồ-tát Quán Thế Âm tỏa sáng lung linh và muôn đời bất tuyệt.

Monday, July 9, 2007

Chiec dan duong cam

Cô gái và chiếc đàn dương cầm
Thể như
Ở Châu Âu có một cô gái là nghệ sĩ dương cầm năng khiếu. Cô nhận được sự cổ vũ đông đảo ở tỉnh nhà và cảm thấy rất hứng chí và hảnh diện khi các fans của mình càng lúc càng đông. Năm ấy cô sang Đức du lịch, dĩ nhiên, khu bảo tàng di tích của thiên tài dương cầm Ludwig van Beethhoven trong khuôn viên đại học Bonn là điểm viếng thăm quan trọng. Đến nơi, tuy hòa với dòng người lũ lượt, cô gái với tài năng đánh đàn dương cầm điệu nghệ nên thấy mình khác hẳn các người khách du lịch ‘tầm thường’. Cô muốn đi tách riêng ra một chút nhưng rất tiếc, nhân viên hướng dẫn ở đây không biết ai là ai nên vẫn cứ “lùa” mọi người, kể cả cô gái đi đúng theo tuyến quy định trong viện bảo tàng. Gian chính của tòa lâu đài uy nghiêm có đặt chiếc dương cầm thần thoại mà chính thiên tài Beethhoven lúc sinh thời từng sử dụng. Chiếc dương cầm cổ điển, lung linh huyền ảo được đặt trang trọng trên bục biểu diễn trải nhung. Lòng khao khát tự thể hiện trổi dậy. Không cưởng lại nổi cô gái leo lên bục và những nốt nhạc réo rắt, xao xuyến vang lên theo những ngón tay khéo léo của cô. Khách đang tham quan tụ lại, xúm xít quanh khen ngợi. Cô gái sung sướng ra mặt, nói: “Dạ, em cũng biết chơi chút ít” nhưng trong bụng thì khẳng quyết rằng mình có đầy đủ lý do để tự hào và hảnh diện. Giữa những xung động ồn ào, có một người đàn ông đứng tuổi chỉ im lặng trầm ngâm, hình như ông đã ngồi đó bên cạnh cây đàn tự bao giờ. Tiếng một người phụ nữa thì thầm trong đám đông: Ồ, đúng rồi! Ông ta chính là Paderewski từ Phần Lan đến. Cô gái giật mình, không ngờ do một phút tình cờ mà mình lại gặp được nhân vật nổi danh trong thế giới dương cầm này. Cô đánh bạo hỏi tại sao Paderewski lại không chơi thử một đoạn nhạc. Người nhạc sĩ dương cầm Phần Lan trả lời: Beethhoven là bậc thầy dương cầm đúng nghĩa mà tôi luôn tôn thờ. Đối với tài năng của thầy, tôi là một học trò bé nhỏ, làm sao tôi lại dám ngồi vào sử dụng chiếc đàn thiêng liêng đó. Nhận ra điều gì đó, cô gái ngượng ngùng bước xuống. (theo Danai Chanchaochai)

Lời bàn:
Có dịp về quê, đi ngang những đồng lúa, chúng ta nhận thấy rằng những ruộng lúa già chín chừng nào thì càng cúi thấp chừng nấy. “Ưởn ngực ta đây” thì chúng ta biết chắc đó là những dạt lúa còn non, tệ hơn nữa là những dạt lúa đã lép hạt. Quả vậy, hợm hĩnh, kiêu ngạo là dấu hiệu của những tâm hồn non kém.
Thật ra trong cuộc sống, có những lúc khiêm cung dường như là không thực tế và bất khả thi. Là người ‘có tay nghề’ nhiều lần chúng ta thấy người khác hay một nhóm người khác đang quờ quạng, trên trán lấm tấm mồ hôi, hì hục làm đúng công việc mà đối với mình là ‘nghề của chàng’. Bản năng muố hiện khiến chúng ta cảm thấy ‘gay mắt, ngứa miệng’, chắc chắn rằng nếu mình ra tay thì một thoáng là xong. Trường hợp này, chúng ta hãy nghĩ ngay đến một tình thế ngược lại, cụ thể như chúng ta đang ‘cực khổ’, loay hoay sửa chửa dàn vi tính ‘dở hơi’. Lúc đó đương nhiên chúng ta phải khiêm tốn đối với một chuyên gia tin học lành nghề.
Tài năng thường có thuộc tính xã hội, cộng đồng. Ai cũng có ít nhiều thiên phú hay tài năng về một khía cạnh nào đó; tuy nhiên, thiên phú hay tài năng của một người phải nhờ vào sự thán phục và ủng hộ của nhiều người khác mà được rèn luyện, nuôi dưỡng và phát triển. Như vậy tài năng hay những thành tựu do tài năng đem lại mang tính chất tương duyên, một cá nhân không thể tự có được.
Mặc khác, người có trí thì luôn ý thức được những hạn chế, những chổ yếu kém của mình. Vị hành giả thực tu thường xuyên nhận thấy thực tính là không tính, không tính là vô ngã tính, nên luôn luôn khiêm cung trong tư tưởng, khiêm cung trong lời nói, và khiêm cung trong hành động.
Trong đạo lý nhà Phật, thật sự biết cúi đầu là thật sự thoát khỏi ngã chấp, thật sự giác ngộ tính hư huyễn của các pháp và thực tính vô ngã của chính bản thân mình. Thực tập đạo lý vô ngã hướng đến mục tiêu tối hậu của kiếp làm người một cách cụ thể là thực tập tính khiêm cung. Một khi tính khiêm cung trở nên thuần thục và viên mãn thì hành giả có được niềm vui lớn nhất, sống tròn đầy nhất trong trạng thái phúc lạc ngay trong kiếp sống này.

Ban chat cua nhan thuc...

Bản chất của nhận thức theo Phật giáo thời sơ kỳ
Thích Minh Thành Ph.D.







Từ thời cổ đại lưu vực sông Hằng là khu vực sản sinh phong phú những dòng tư tưởng cũng như những luận điểm triết học. Chỉ tính đến những luận điểm nổi bật và có tiếng vang kinh Trường bộ đã liệt kê đến 62 loại khác nhau, một con số kỷ lục của thế giới triết học thời ấy. Ngoài hệ thống tư tưởng chủ đạo chính quy của những tế sư Bà la môn đang dùng lợi thế của chính trị và sức mạnh của tập tục truyền thống thống trị diễn đàn tư tưởng, còn có vô số những du sĩ ngoại đạo. Dưới mắt của những vị Bà la môn, tăng đoàn của Đức Phật cũng là một hội chúng du sĩ ngoại đạo. Ngoài tăng đoàn Đức Phật còn có 6 hội chúng có danh vọng khác do 6 vị đạo sư thời danh lãnh đạo. Phồn tạp và đa dạng nhưng hầu hết đều nỗ lực tìm hiễu con người và thế giới trên hai nguồn y cứ: Một, dựa vào lý luận và những kết quả của lý luận để xác định đâu là chân lý: những nhà duy lý; hai, dựa vào những trải nghiệm cụ thể của cá nhân hay tập thể trong cuộc sống cũng như trong cảnh giới thiền để tìm hiểu và phán xét đúng sai: những nhà duy nghiệm. Nói cách khác, những nhà duy lý phủ nhận hoàn toàn cái mà họ cho là “ảo giác” của những trải nghiệm trong khi những nhà duy nghiệm lại dựa vào những thông tin thu thập được từ trong những trải nghiệm, những thiền tư. Thật ra duy lý và duy nghiệm nói chung là hai nguồn y cứ chính của giới triết học Đông Tây kim cổ. Rất tiếc là hai nguồn y cứ triết học chủ lực này đã cung cấp dữ liệu để xây dựng nên những học thuyết, những quan điểm mà Đức Phật gọi chung là hý luận triết học (speculations) với đặc điểm là không tiếp cận được sự thật.
Ở đây chúng ta dành một phút cho vấn đề ngôn ngữ. Hý luận triết học hay hý luận siêu hình (metaphysical speculation), nguyên ngữ Pali là adhivuttipada, bản tiếng Anh dịch là speculation, có bản tiếng Việt dịch là luận bàn về. Thật ra adhivuttipada có nghĩa đen là nói quá độ. Như vậy cả hai bản dịch Anh và Việt đều không lột tả được và để mất đi “màu sắc quá độ” của việc luận bàn.
Tựu trung, ngoài những sở chứng của chánh định ra, đối với tất cả những quan điểm, những phán đoán hay dữ liệu thu thập được từ hai nguồn y cứ: luận lý và trải nghiệm được các vị đạo sư ngoại đạo tuyên bố và triển khai, Đức Phật đều xem là hý luận siêu hình, hay nôm na hơn là “nói quá lời”
[1]. Quả vậy, những nhà hoài nghi đã đẩy mức độ hoài nghi đến chổ cực đoan, những nhà duy lý đã đẩy lý lẽ đến mức độ cực đoan...
Ngược dòng lịch sử triết học, chúng ta thấy những hệ tư tưởng lớn thời tiền Phật giáo đều chú trọng tính chất khách quan tuyệt đối trong việc tìm cầu và tuyên bố chân lý. Dù là hệ tư tưởng chủ đạo chính quy Bà la môn hay là những hệ tư tưởng phụ lưu theo khuynh hướng duy vật, hoài nghi hay dung hòa. Nói cách khác, giới triết gia muốn tỏ ra khách quan trong phương pháp triết học do vậy họ không để tâm đúng mức đến vị trí hay tác động của con người nhận thức trong tiến trình nhận thức, họ mãi mê đi trên con đường khách quan tuyệt đối để tìm kiếm hay để phủ nhận một đối tượng tuyệt đối, khách quan và siêu hình, thường hằng và tối hậu.
Đức Phật đã phê phán một cách khác tỉ mẫn và chi tiết toàn bộ nền tư tưởng trên, cụ thể là 62 lập ngôn triết học thời danh và nêu lên 5 cơ sở của 62 học thuyết mà giới tư tưởng thời bấy giờ dựa vào là: (1) niềm tin hay tín lý (saddhà); (2) sự ưa thích hay lòng mến chuộng (ruci); (3) truyền thống hay tường thuật (anussava); (4) tư duy trên sự biểu hiện hay sự chặt chẽ của luận lý (akara-parivitakka); và (5) sự trầm tư về những quan điểm hay sức mạnh của những tầm nhìn (ditthi-nijjhanakkhanti).
[2]
Trung bộ kinh, kinh Canki số 95 phê phán 5 cơ sở này như sau: “Này Bharadvaja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại. Thế nào là năm? Tín, tùy hỷ, tùy văn, cân nhắc suy tư các lý do và chấp nhận quan điểm. Này Bharadvaja, năm pháp này có hai quả báo ngay trong hiện tại. Tuy vậy, này Bharadvaja, có điều được khéo tin tưởng, có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo tin tưởng, có thể là thật, chân, không thay đổi. Lại nữa này Bharadvaja, có điều được khéo tùy hỷ... được khéo tùy văn... được khéo cân nhắc suy tư... được khéo chấp nhận có thể là trống không, trống rỗng, hư vọng. Trái lại, có điều không được khéo chấp nhận có thể là thật, chân, không thay đổi. Hộ trì chân lý, này Bharadvaja không đủ để một người có trí đi đến kết luận một chiều là: "Chỉ đây là sự thật, ngoài ra đều là sai lầm"
Ở đây chúng ta chỉ chọn nêu lên cách phân tích những đặc điểm của cơ sở thứ nhất là niềm tin, cách phân tích này có thể áp dụng cho 4 cơ sở còn lại. Niềm tin ở đây là tin vào một nguồn tri thức hay nguồn dữ liệu nào đó, tin vào mối quan hệ giữa tri thức và ngôn ngữ dùng để diễn đạt tri thức, và tin vào sự tiên tri việc tương lai trên nền tảng của nguồn tri thức, thông tin hay dữ liệu hiện có. Nhan nhãn trong thực tế cuộc sống khi có niềm tin vào một nguồn tri thức nào đó thì người ta cứ cho đó là sự thật dù có hàng trăm sự kiện khác nhau chứng minh ngược lại. Xưa cũng như nay, người mê tín vẫn chiếm tuyệt đại đa số.
Về mối quan hệ giữa tri thức và ngôn ngữ chúng ta thấy có hai cực đoan: Một, cho rằng ngôn ngữ bất lực trong việc miêu tả tri thức hay nhận thức, nói cách khác nhận thức vượt ngoài mọi khuôn khổ của ngôn ngữ (đặc biệt là dạng nhận thức cao cấp); hai, ngôn ngữ là hình chụp, là bản sao y, có thể rất trung thành trong việc chuyển tải nhận thức (theo quan điểm của học thuyết hình tượng ngôn ngữ). Đặc biệt, niềm tin vào nguồn nhận thức liên quan đến tương lai ở mức độ cực đoan lại chính là nguồn tác động chủ lực để sản sinh ra niềm tin mạnh mẽ hơn nữa về việc tiên tri. Ngược lại là cực đoan cho rằng tương lai là chuyện hoàn toàn không thể biết trước dù thông tin có mang tính xác thực cao đi nữa.
Trong đoạn kinh trên Đức Phật đã phủ nhận tính như thật của một ý tưởng hay một học thuyết dựa trên niềm tin hay tín lý, dựa tên sự ưa thích hay lòng mến chuộng, dựa trên truyền thống hay tường thuật, dựa trên tư duy trên sự biểu hiện hay sự chặt chẽ của luận lý, hay dựa trên sự trầm tư về những quan điểm hay sức mạnh của những tầm quan sát. Tất cả những cơ sở mà người ta hay dựa vào đó không nhất thiết là đúng sự thật, là không hư vọng. Phát ra lời tuyên bố mang tầm cở của “tiếng rống của con sư tử” như vậy có nghĩa là Đức Phật đã lung lay những cơ sở triết học có trước, cũng có nghĩa là dọn một khoảng trống triết học cần phải lấp đầy. Nói cách khác, Đức Phật phải có lập ngôn.




Muốn nêu lên lập ngôn của Đức Phật chúng ta cần phải ôn lại một cách bao biện đặc điểm chung nhất của những học thuyết có trước: Mang tinh thần khách quan tuyệt đối để tìm kiếm hoặc để phủ nhận những cái tối hậu, cái bản chất nền tảng của con người và thế giới. Trong công cuộc tìm kiếm trường kỳ này, lần lượt xuất hiện những khái niệm siêu hình như: brahman, cái phạm thể vĩnh hằng, nguyên lý của vũ trụ, của đạo đức và nhân sinh; rta, cái nguyên lý vận hành điều phối tất cả; atman, cái ngã tổng thể tiên thiên xuất hiện từ thời hồng hoang chưa có đêm và ngày, sáng và tối, cái đầu tiên ý thức được tự thân và vũ trụ chung quanh. Bên cạnh đó là những dòng tư tưởng đối nghịch, duy vật, hoài nghi. Nhưng tất cả đều đinh ninh rằng có một cái khách quan tuyệt đối và phải dùng một phương pháp triết học khách quan tuyệt đối để thấy được, thể nhập được. Nói cách khác, tất cả đang miệt mài tìm kiếm cái khách quan tuyệt đối mang tính siêu hình, tối hậu và thường hằng.
Sống trong bầu không khí triết học như vậy, Đức Phật nhận ra sự vất vã nhưng vô vọng của những nhà tư tưởng tiền bối và Ngài đã khai phá con đường mới có thể tạm đặt tên là con đường thường nghiệm tương đối hay duy nghiệm tương đối (empirisist). Đức Phật trở về quan sát những cái thường nghiệm, nói rõ hơn là quan sát hoạt động của những giác quan khi tiếp xúc với các đối tượng của chúng. Đức Phật xét xem một khi con mắt thấy sắc thì việc gì xảy ra. Quả là một việc rất đỗi “đời thường”, ai mà không lấy mắt thấy sắc hằng ngày (không hề có màu sắc siêu nghiệm, siêu hình hay tối hậu: cái “phong” chung của các triết gia)
[3]. Có thể là Đức Phật đã cảm thấy rất ngạc nhiên... tương tự như và xảy ra trước cái ngạc nhiên ngơ ngác của Newton khi thấy trái táo rơi.
Từ những quan sát như vậy Đức Phật tuyên bố như sau: “Này các tỷ kheo, do duyên mắt và các sắc, nhãn thức khởi lên; sự gặp gỡ của 3 pháp này là xúc; do duyên xúc thọ khởi lên. Một người cảm thọ cái gì thời tưởng tri cái ấy; một người tưởng tri cái gì thời tư lường cái ấy; một người tư lường cái gì bị ám ảnh bởi cái ấy; một người bị ám ảnh bởi cái gì thời những khái niệm có ra do tưởng tri bị ám ảnh tấn công vị ấy liên quan đến các sắc do mắt nhận thức, quá khứ, tương lai và hiện tại”
[4]
Có thể nói rằng đây là lập ngôn chính thức của Đức Phật về tiến trình nhận thức, một điểm sáng quan trọng trong nền triết học Phật giáo thời sơ kỳ. Ngoài Đức Phật ra, trong thời kỳ cổ đại chúng ta không tìm thấy bất cứ một triết gia nào khác đã quan sát tiến trình như vậy hay một tiến trình tương tự trong lịch sử nhận thức luận của triết học.
Từ câu kinh trên Kalupahana đã rút ra những hệ luận như sau:
1. Những trải nghiệm giác quan phát sinh theo nguyên lý duyên khởi mà không hề có một cái ngã siêu hình (atman) hay một tự thể làm điểm xuất phát. Nói cách khác, có tiến trình nhận thức mà không thấy một chỉnh thể người hay tác nhân thực thi chức năng nhận thức.
2. Những học thuyết cho rằng có một cái tâm nguyên sơ trong sáng (theo dạng “nhân chi sơ tánh bản thiện”) được hình dung như một tờ giấy trắng, rồi những trải nghiệm, cảm giác, tri thức, tình cảm... qua tiến trình nhận thức sẽ được ghi lại trên đó. Tuy hình ảnh này thường được dùng trong những bài thuyết giáo nhưng thật ra khó tìm được vị trí triết học trong Phật giáo thời sơ kỳ, dạng Phật giáo không bao giờ xem tâm tương tự như một tờ giấy trắng
[5].
Trong tiến trình nhận thức mà đoạn kinh miêu tả thì đôi mắt được đề cập đầu tiên. Đôi mắt chắc chắn không phải là chủ thể trung tâm hay tác nhân mà chỉ là một bộ phận của một chỉnh thể lớn hơn là xác thân hay sắc thân. Trong khi đó xác thân cũng chỉ là một bộ phận của một chỉnh thể lớn hơn nữa là cơ cấu tâm-vật-lý (nama-rupa) hay còn gọi là một hữu tình. Như vậy khái niệm về một tờ giấy tinh khôi làm điểm tựa xuất phát, làm nơi lưu trữ của nhận thức không thể được thiết lập về phương diện triết học.
3. Mặc dầu các sắc hay đối tượng của nhận thức được đề cập sau cặp mắt nhưng cả hai đều có vị trí bình đẳng trong việc làm duyên cho thức phát sinh. Do duyên hai cái này mà thức sinh khởi; nói cách khác, do duyên mắt và sắc mà tiến trình nhận thức bắt đầu vận hành
[6].
Khi đề cập đến đối tượng của nhận thức với vai trò là tiền đề cho tiến trình nhận thức, đoạn kinh trên không nói rõ đối tượng đó cụ thể là gì. Rõ ràng đoạn kinh trên cũng không cho rằng đối tượng đó là một dạng dữ liệu thô hay “mới sơ chế”, mơ hồ và mờ nhạt; sau đó nhờ được vận hành qua các giai đoạn tiếp theo trong tiến trình nhận thức mà trở nên rõ ràng hơn vì qua tiến trình đó nó “được tinh chế”. Nhận thức luận Phật giáo ở đây không nói theo chiều hướng thông thường cho rằng khi mắt thấy một đóa hoa; thoạt đầu đó chỉ là thông tin sơ bộ, một dạng dữ liệu thô sơ. Sau đó dạng dữ liệu thô này trải qua những công đoạn nhận thức kế tiếp mà trở thành dạng dữ liệu tinh tế hơn, hay dạng nhận thức tinh tường hơn; lúc này, chủ thể nhận thức biết thêm tên gọi, màu sắc, đặc tính, dược chất... của đóa hoa đó
[7].
Rõ ràng, Đức Phật không đặt trọng tâm vào việc cố gắng miêu tả đối tượng nhận thức một cách khách quan tuyệt đối hay nổ lực tìm kiếm xem cái gì là bản chất tối hậu của các sắc như các triết gia đồng đại với Ngài thường làm. Ngược lại, Đức Phật đặt trọng tâm vào việc xét xem một hữu tình làm gì, chuyển biến như thế nào đối với cái gọi là đối tượng của nhận thức. Nói cách khác Đạo Phật trong thời sơ kỳ không đặt vấn đề tìm hiểu bản chất của các pháp là gì, bản chất vũ trụ ra sao, có biên tế hay không; mà đặt vấn đề tìm hiểu cơ cấu và sự vận hành của bộ máy tâm-vật-lý; trong sự vận hành đó chiều hướng nào dẫn đến u mê và chìm đắm, chiều hướng nào dẫn đến ánh sáng và giải thoát.
4. Đức Phật ý thức được rằng cái tuyệt đối khách quan trong tiến trình nhận thức nói chung hay trong việc nhận thức một đối tượng nào đó nói riêng là không thể đạt được vì tất cả đều là những bộ phận của một cơ cấu nhận thức, trong đó tiếp xúc, cảm thọ... mang dấu ấn cá nhân cũng là một bộ phận có mối quan hệ hữu cơ với chỉnh thể nhận thức, không thể tách rời. Nói cách khác, tuyệt đối khách quan trong quá trình nhận thức là cái không tưởng; nói nôm na, nhãn quan hay lăng kính có nhuộm màu của một tác nhân mang tính tương đối là cái mọi lúc mọi nơi. Ý thức này được trình bày qua câu tuyên bố về vấn đề điều gì đã xảy ra khi tiến trình nhận thức khởi động: “Do duyên mắt và các sắc nhãn thức khởi lên”. Nhãn thức do duyên các sắc mà khởi lên là làm thế nào nhãn thức không bị chi phối bởi những đặc tính của một hình sắc cụ thể nào đó. Đối lại, việc truy tìm bản chất của các sắc thì chắc chắn không thể không tính đến nhãn thức, cái đã bị chính các sắc đó chi phối vì do các sắc đó làm nhân mà có ra.
Đến đây chúng ta có thể xác lập được tính chất phức tạp đa yếu tố của tiến trình nhận thức. Nếu nhãn thức hay tâm thức nói chung không mang tính chất của một tờ giấy trắng mà là bộ phận của một chỉnh thể nhân thân tâm-vật-lý thì tất nhiên nhãn thức chịu sự chi phối của chỉnh thể đó, cụ thể là bởi những trải nghiệm có trước, những tiếp xúc, tình cảm, quan điểm, kiến thức... Vận hành trong một chỉnh thể lớn hơn như vậy, tâm thức phải tiếp nhận sự tác động của nhiều yếu tố phức hợp và phồn tạp; chúng chen vào chi phối cách nhìn, cách đánh giá một đối tượng, hay những quyết định liên quan đến đối tượng đó. Điều này một mặt biểu lộ bản chất phức tạp của tâm thức, mặt khác lại cho thấy người ta có thể bảo lưu trong một mức độ nào đó tính khách quan của mình đối với một đối tượng nhận thức. Đức Phật nhấn mạnh sự ràng buộc của nhãn thức hay tâm thức nói chung vào đối tượng của nhận thức. Có lẽ vì vậy mà việc hộ trì các căn là việc mà Đức Phật thường xuyên khuyến cáo
[8].
Một điểm cần lưu ý ở đây là tuy tuyên bố rằng do duyên mắt và các sắc mà nhãn thức khởi lên (hay nói nôm na là nhãn thức được sinh ra) nhưng đạo Phật thời sơ kỳ không hề gợi lên ý tứ gì liên quan đến học thuyết sát na sinh diệt mà bộ phái Nhất thiết hữu bộ chủ trương. Tương tự, đạo Phật sơ kỳ cũng không gợi lên ý tứ gì liên quan đến học thuyết hậu hiện tượng mang màu sắc duy vật cho rằng tâm thức là dạng tinh tế nhất của vật chất, do bước thăng hoa nhảy vọt của vật chất mà có; nói chung tâm thức là sản phẩm của vật chất trong một dạng năng lượng tinh tế nhất. Từ cách nhìn như vậy, người ta cho rằng tâm thức được sản sinh liên tục trong từng sát na trong trường hoạt động của vật chất, trong trường hợp cụ thể này là trong trường tiếp xúc giữa căn và trần.
Trở lại quan niệm cho rằng sự nhận thức một đối tượng trong giai đoạn đầu tiên sơ khởi nên mang tính thô sơ; sau đó trải qua những giai đoạn kế tiếp thì nhận thức đối tượng ấy được “tinh chế” và vì vậy mà đối tượng hiện ra một cách rõ ràng, sắc nét và chính xác hơn. Thật ra quan niệm này không tương thích với cách nhìn của Phật giáo sơ kỳ. Ba giai đoạn đầu của tiến trình nhận thức: tiếp xúc - cảm thọ - tưởng tri, chúng ta thấy giữa tiếp xúc và tưởng tri có giai đoạn cảm thọ hay cảm nhận gồm 3 dạng: vui, khổ, và trung tính. Như vậy chúng ta có thể nhận ra rằng giai đoạn cảm thọ không làm tăng thêm độ chính xác, tăng thêm độ trong sáng cho nhận thức mà chỉ định tính thêm, nhuộm màu thêm cho nhận thức mà thôi.
Nhân đây, chúng ta hãy làm rõ hơn ý nghĩa của xúc trong triết học Phật giáo sơ kỳ. Xúc không chỉ có nghĩa là động chạm đơn thuần, mà xúc ở đây hàm nghĩa rộng hơn nhiều nôm na là hai bên “làm thân với nhau”. Đồng thời xúc có vai trò triết học rất căn cơ đến đổi Đức Phật lập đi lập lại nhiều lần rằng tất cả những học thuyết về thế giới đều dựa trên xúc (phassa-paccaya) mà xây dựng. Kinh Trường Bộ ghi chép như sau:
45. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới là thường trú với bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
46. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn đối với một hạng hữu tình và vô thường đối với một hạng hữu tình khác với bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
47. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên với bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
48. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận. Khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi là do sự xúc chạm (của các căn).
49. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh với hai luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
50. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về quá khứ tối sơ, chấp kiến về quá khứ tối sơ, y chỉ về quá khứ tối sơ, đề xướng nhiều ý kiến sai khác với mười tám luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
51. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã có tưởng sau khi chết với mười sáu luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
52. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
53. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã phi hữu tưởng phi vô tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
54. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ðoạn diệt luận, chấp trước sự đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài hữu tình với bảy luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
55. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hiện tại Niết bàn luận, chấp trước sự hiện tại Niết Bàn của loài hữu tình với năm luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
56. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về tương lai, chấp kiến về tương lai, y cứ về tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
57. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về quá khứ tối sơ, luận bàn về tương lai, luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Chủ trương ấy phát khởi do sự xúc chạm (của các căn).
58. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Thường trú luận, chấp bản ngã và thế giới là thường còn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
59. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương một phần Thường trú luận, một phần Vô thường luận, chấp bản ngã và thế giới, là thường còn đối với một hạng hữu tình và vô thường đối với một hạng hữu tình khác với bốn luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
60. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu biên Vô biên luận, chấp thế giới là hữu biên vô biên với bốn luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
61. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ngụy biện luận. Khi bị hỏi vấn đề này hay vấn đề khác dùng những lời ngụy biện trườn uốn như con lươn với bốn luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
62. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, chủ trương Vô nhân luận, chấp bản ngã và thế giới do vô nhân sanh với hai luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
63. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về quá khứ tối sơ, chấp kiến về quá khứ tối sơ, y chỉ về quá khứ tối sơ, đề xướng nhiều ý kiến sai khác với mười tám luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
64. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hữu tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã có tưởng sau khi chết với mười sáu luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
65. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Vô tưởng luận sau khi chết, chấp bản ngã không có tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
66. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Phi Hữu tưởng Phi Vô tưởng sau khi chết, chấp bản ngã phi hữu tưởng phi vô tưởng sau khi chết với tám luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
67. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Ðoạn diệt luận, chấp trước sự đoạn diệt, tiêu mất, hủy hoại của loài hữu tình với bảy luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương, trên, nếu không có cảm xúc.
68. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn chủ trương Hiện tại Niết Bàn luận, chấp trước hiên tại Niết Bàn của loài hữu tình với năm luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
69. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về tương lai, chấp kiến về tương lai, y cứ về tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với bốn mươi bốn luận chấp. Các vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.
70. Này các Tỷ-kheo, ở đây có những Sa-môn, Bà-la-môn, luận bàn về quá khứ tối sơ, luận bàn về tương lai, luận bàn về quá khứ tối sơ và tương lai, chấp kiến về quá khứ tối sơ và tương lai, y cứ về quá khứ tối sơ và tương lai, đề xướng nhiều sở kiến sai khác với sáu mươi hai luận chấp. Những vị này không có thể cảm thọ những chủ trương trên, nếu không có cảm xúc.

Như chúng ta đã biết sau giai đoạn tiếp xúc hay “làm thân”, giai đoạn kế tiếp là cảm thọ hay cảm nhận với những cảm giác cụ thể như ngưỡng mộ hay ưa thích, khinh thị hay chán ghét, và trung tính hay phẳng lặng. Đức Phật ý thức rất rõ vai trò của cảm thọ trong tiến trình nhận thức nhất là về phương diện đạo đức. Trong cơ chế vận hành những trải nghiệm của chỉnh thể tâm-vật-lý, cảm thọ là yếu tố chủ lực giúp cho những quyết định đạo đức có cơ sở thực tế, không rơi vào chiều hướng võ đoán, vô cảm, duy lý trí. Đồng thời, Đức Phật cũng ý thức rõ mối nguy hại của dạng cảm thọ man dại (monstruous). Một khi dạng cảm xúc man dại này đủ mạnh, nó có thể làm tê liệt hoàn toàn khả năng luận lý của con người, thậm chí khiến con người mất hết năng lực phán xét của lý trí. Nói chung cảm thọ là yếu tố không thể không có trong tiến trình nhận thức hay tiến trình trải nghiệm, nhưng cảm thọ cũng là cái gây ra hầu hết những đám sương mù, những nhập nhằng, nhầm lẫn trong nhận thức; hậu quả là những nỗi đau khổ, bất hạnh mà con người phải gánh chịu.
Quan sát và diễn tả giai đoạn tưởng tri, điều thú vị là Đức Phật đã thay đổi mô thức ngôn ngữ, từ ngôn ngữ vô nhân xưng sang ngôn ngữ có nhân xưng, thay vì sử dụng mô thức duyên khởi như: “do duyên cảm thọ tưởng tri khởi lên”, Đức Phật đã sử dụng mô thức ngôn ngữ có một chủ thể làm tác nhân: “Một người cảm thọ cái gì thời tưởng tri cái ấy” (Yam vedeti, tam sanjanati). Đây là một cách chuyển hướng ngôn ngữ tinh tế, phản ánh một hiện thực phổ biến trong tiến trình trải nghiệm của một phàm phu, cho thấy một hợp thể do nhiều yếu tố kết hợp mà có lại đảm nhiệm chức năng của một tác nhân mang màu sắc của một chủ thể. Nơi cái chủ thể mà đúng hơn là một hợp thể như vậy lại có thể bộc lộ ra hay hình thành nên khái niệm tự ngã (atman) tự tồn và độc lập, sản phẩm của dạng cảm tính quá độ mặc nhiên vận hành tạo nên.
Cách dụng ngữ như vậy cho thấy cảm tính quá độ đã nhiễm vào tiềm tàng sẳn trong ngôn ngữ thông tục như thế nào. Ngược lại, theo Phật giáo dạng ngôn ngữ vô nhân xưng lại có thể gây được hiệu ứng chuyển hóa cảm tính nhưng không triệt tiêu cảm tính; nói cách khác bản thân tưởng tri qua hình thái ngôn ngữ có khả năng giúp tình trạng cảm tính của con người chuyển biến theo chiều hướng tốt đẹp hơn.
Nói rằng: “Một người cảm thọ cái gì thời tưởng tri cái ấy” là gián tiếp khẳng định tưởng tri của con người nói chung thường bị đời sống tình cảm của người ấy điều động, thừa nhận rằng những ham thích của một người dù nhẹ nhàng hay say đắm, những bất thỏa ý của một người dù là hờn dỗi hay căm ghét đều có vai trò nhất định trong sự vận hành của tưởng tri, một giai đoạn trong tiến trình nhận thức.
Quả thật không có một tưởng tri nào có thể hoàn toàn thoát khỏi sự chi phối của cách tiếp nhận thông tin hay cách quan sát thực tại. Trong khi đó thì cách tiếp nhận thông tin hay cách quan sát thực tại lại bị chi phối nhẹ nhất là bởi những khuynh hướng, những cảm tính và nặng nhất là bởi thái độ ưa thích hay chán ghét, tựu trung đều là những thiên chấp đã có từ trước.
Giai đoạn kế tiếp trong tiến trình nhận thức là tư lường hay suy tư (vitabba). Tư lường có chức năng dẫn dắt tưởng tri theo hai hướng: trói buộc và đau khổ hay giải thoát và hạnh phúc. Nếu tư lường tiếp tục vận hành theo hướng xác tín sự hiện hữu của một cái ngã tự tồn và độc lập (atman) thời hiện tượng ám ảnh (papanca) sẽ xuất hiện. Cần ghi nhận rằng ám ảnh là một hiện tượng có tính bộc phát do kết quả vận hành một cách mặc nhiên của quan niệm cái ngã tự tồn và độc lập, chất xúc tác là trạng thái cảm tính quá độ.
Tuy nhiên một khi đã xuất hiện thì hiện tượng ám ảnh lại liên quan không nhiều với bản thân của tưởng tri (sanna) mà chủ yếu lại liên quan với sự vận hành của khái niệm (sankha) về đối tượng được tưởng tri.
Một đoạn kinh khác đặc biệt nhấn mạnh mối quan hệ chặt chẽ giữa hiện tượng ám ảnh với tưởng tri dựa trên khái niệm (papanca-sankha). Có khi tưởng tri vận hành trên cơ sở những ý niệm và ý niệm là những cái nhất thời nên tưởng tri cũng bị ảnh hưởng bởi tính chất nhất thời đó và hiện tượng ám ảnh không lâu bền. Có khi tưởng tri vận hành trên cơ sở những khái niệm và khái niệm là những cái có tính lâu bền hơn nên hiện tượng ám ảnh thường kéo dài. Trường hợp con người bị ám ảnh do tưởng tri một ý niệm tự ngã, thì khi ý niệm tự ngã đó tan loãng đi thì hiện tượng ám ảnh sẽ không còn. Trường hợp ngược lại, tình trạng ám ảnh sẽ kéo dài nếu liên quan đến những khái niệm về đối tượng nhận thức trong quá khứ, hiện tại, và tương lai. Nói cách khác, người ta dễ dàng rơi vào vòng nô lệ cho những khái niệm có tính cách bền bỉ và thường hằng, vững chắc và kiên định, trong khi một ý niệm, hay một thoáng tưởng tri khó có thể sai sử con người vì rõ ràng nó có tính nhất thời và dễ tan biến.
(Giáo tài môn Lịch Sử Tư Tưởng Phật Giáo thời Nguyên Thủy.
Giáo tài này còn thiếu những cước chú sẽ được bổ sung sau)