Sunday, May 20, 2007

Vần điệu của đức tin


Vần điệu” của đức tin
Thể Như
Từ thuở hồng hoang, lúc mới chớm tách ra khỏi thế giới của con thú, con người có một bước đột biến nổi trội về ý thức. Ý thức về cái ta và thế giới chung quanh. Những ý niệm ta và không phải ta dù thô thiển đến đâu cũng đã giúp cho con người giả từ cái thế giới thuần bản năng của con thú. Sấm chớp làm cho con thú sợ hãi, nhưng sợ hãi rồi thôi. Sấm chớp làm cho con người sợ hãi, nhưng sợ hãi rồi tưởng tượng: Phải có ai đó!!! Có một sức mạnh kinh hồn... nóng bỏng!!! Một nhát rìu mà đánh toạc cả một ngọn cây to lớn kia... Một tia lửa làm nát bét và cháy xém cả một con hưu đang chạy. Chắc chắn đó phải là một án, một quỷ dữ. Thế là con người nguyên thuỷ bắt đầu một niềm tin vào thần quỷ. Một đức tin ấu trĩ có nguồn gốc là sợ hãi và tưởng tượng.

.
Khi đức tin mang vần điệu của sợ hãi và tưởng tượng phát triển đủ mạnh và đủ chi tiết, con người thêu dệt thành hai thế giới: Thế giới con người ở mặt đất và thế giới thần thánh ma quỷ ở trên cao hay lẫn khuất đâu đó. Song song, con người tìm cách lý giải tất cả mọi sự kiện, mọi hiện tượng, mà con người mắt thấy, tai nghe và thân thể cảm nhận được: từ trăng sao, ngày đêm, núi sông, cây cỏ... đến chuyện bệnh tật, chết chóc, ôn dịch, động đất, núi lữa, gió mưa... Quá trình này khiến cho chức năng suy tư kèm theo tưởng tượng của con người phát triển. Con người bắt đầu biết nối kết những sự kiện lại với nhau theo một trật tự nào đó: Sự giận dữ của thần thánh được nối kết với sấm chớp, bão tố. Sự vui vẽ của thần thánh được nối kết với mưa thuận gió hòa. Tình thương yêu của thần thánh được nối kết với sự khoẻ mạnh của con người. Sự thù ghét của thần thánh được nối kết với bệnh tật, ốm đau. Đức tin từ đây thường đi kèm với lý lẽ và sự liên tưởng.

.
Dạng đức tin mang vần điệu của lý lẽ và sự liên tưởng phát triển đến một mức độ nào đó thì dạng thực nghiệm tiền sử của tôn giáo xuất hiện. Đó là vu thuật và cầu cúng tự phát. Tất cả những sắc thái đức tin được đề cập ở trên chẳng những không đối nghịch và triệt tiêu lẫn nhau mà còn hòa quyện với nhau và phát triển. Phát triển đến một mức độ nào đó thì tổ chức phôi thai của tôn giáo tín ngưỡng xuất hiện, song hành đan xen, có khi xung đột, có khi hòa nhập với tổ chức xã hội. Đây là dạng đức tin mang vần điệu của tổ chức và quyền lực.

.
Những hiệu quả, lợi ích mà tổ chức tôn giáo tín ngưỡng đem lại làm phong phú hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thời sơ khai, tạo cho con người một dạng tình cảm tôn giáo. Dạng tình cảm này rộng lớn hơn, vượt qua khỏi biên giới của gia đình, của dòng họ và của bộ tộc, tạo nên một sức mạnh sinh tồn đáng kể dựa trên tín thống kết của tình cảm tôn giáo. Như vậy, tình cảm tôn giáo góp phần ổn định xã hội, đánh bại những bộ tộc thiếu đoàn kết để mở mang lãnh thổ và phát triển vững mạnh. Những hiệu quả và lợi ích tích cực như vận cho con người càng khẳng quyết hơn nữa đức tin tôn giáo tín ngưỡng của mình. Từ đó, những thiết chế tôn giáo tín ngưỡng càng lúc càng vững chắc và đầy quyền lực; có những lúc trở thành sơ cứng, nặng nề. Và, hậu quả là tiêu cực xuất hiện: mê tín và tai hại hơn nữa là cuồng tín. (Thật ra mê tín và cuồng tín không phải là ‘đặc sản’ của tôn giáo mà của bất cứ một niềm tin nào không có từ bi và trí tuệ soi sáng, kể cả niềm tin vào khoa học. Và thật ra cuồng tín không đến nỗi tai hại khủng khiếp nếu không có người lợi dụng nó.)

.
Thiện và ác, tốt và xấu là hai phạm trù đối đải bất khả phân ly của cuộc sống con người. Con người vì thế mà sử dụng tôn giáo tín ngưỡng theo hai phạm trù đó. Một mặt là làm cho phong phú, ổn định và thăng hoa cuộc sống của con người. Mặt khác là khai thác khía cạnh mê tín để trục lợi và khai thác mặt cuồng tín để kích động bạo lực. Từ trong bản chất đạo Phật đã có chủ trương rất rõ về tôn giáo tín ngưỡng. Đây là một sợi chỉ đỏ độc đáo trong suốt chiều dài lịch sử của dòng tư tưởng Phật giáo và được khẳng định lần đầu tiên bằng bài kinh Bhaddiya thuộc Tăng Chi Bộ: “Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền... Nhưng này Bhaddiya khi nào ông tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này bị người trí quở trách; các pháp này, nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng... Nhưng này Bhaddiya khi nào ông tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là thiện, các pháp này là không có tội, các pháp này được người trí tán thán; các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc, an lạc, thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an trú...”
[1]

.
Như vậy, đạo Phật đã vượt lên khỏi tất cả những đức tin trên: Đức tin mang vần điệu của sợ hãi và tưởng tượng; đức tin mang vần điệu của lý lẽ và liên tưởng; đức tin mang vần điệu của tổ chức và quyền lực. Hơn nữa đạo Phật đã hình thành nên một dạng đức tin mang sắc thái trí tuệ và từ bi. Tuy nhiên, những nhà truyền bá đạo Phật không thể không tùy duyên vận dụng sắc màu và vần điệu đa dạng của đức tin, đồng thời luôn luôn nhất quán, trung thành với niềm tin chân chính của mình.

.


[1] Kinh Tăng Chi Bộ, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1996: trang 185-190.

Wednesday, May 2, 2007

Lòng từ ái

Lòng từ ái
Thể Như

Này các Tỷ-kheo, hãy đến biến mãn một phương với tâm câu hữu với từ, rồi an trú, cũng vậy phương thứ hai, cũng vậy phương thứ ba, cũng vậy phương thứ tư. Như vậy cùng khắp thế giới, trên, dưới, bề ngang, hết thảy phương xứ, cùng khắp vô biên giới, an trú biến mãn với tâm câu hữu với từ, quảng đại, vô biên, không hận, không sân. (Đại Tạng Kinh Việt Nam, Kinh Trung Bộ, tập 1, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1992, trang 732 - 733)

Tình cảm và lý trí được xem là hai phương diện của con người. Tình cảm là ngôn ngữ của trái tim còn lý trí là ngôn ngữ của khối óc. Hai phương diện này ít khi đồng thuận mà thường hay mâu thuẩn với nhau khi ứng đối với một việc nào đó. Chính điều này tạo ra những bi kịch của cuộc sống: Con người là nạn nhân bị dằn xé. Một người thường mang hai bộ mặt: thần tình ái và thần công lý, nhân từ và ‘sắt thép’, uy nghiêm ở chốn công đường và tan chảy ở chốn riêng tư sau sàn diễn. Điều hòa được mâu thuẩn này là điều hòa được hầu hết những đau khổ liên quan với mối quan hệ trong gia đình và ngoài xã hội hay nói chung là giữa con người với con người.
Đạo Phật đã mở ra một khung trời rộng rải, thảnh thơi. Trong khung trời đó trái tim không bao giờ ‘cải nhau’ với khối óc, tình cảm không hề đối nghịch với lý trí, và tuyệt nhiên không che mờ lý trí. Hơn thế nữa, tình cảm trong đạo Phật không những hổ trợ cho lý trí, mà thậm chí còn soi sáng cho lý trí. Thật vậy, một mình lý trí không thể tự soi sáng cho chính nó, nhất là khi nó bị tiếng thì thầm của trái tim đang loạn nhịp chen vào.

Trong đời thường tình cảm nhuộm màu hồng làm cho nhận thức bị lệch lạc. Những ngày mới tiến tới tiếp cận được nhau, tình cảm cháy bỏng; nàng đẹp, nết na, làm cho bạn thật dễ chịu. Thậm chí những trái tính, trái nết, mọi người thường cho là xấu mà sao bạn thấy cũng đáng yêu. Đồng điệu với câu ca dao:

Đêm nằm thì ngái ó o,
Chàng thương chàng bảo ngáy cho vui nhà.
Đi chợ thường ai ăn quà,
Chàng thương chàng bảo về nhà đở cơm...

Dần dà tình cảm phai nhạt, trái tim trở lại nhịp đập đơn điệu của nó. Những nết na giờ đây chẳng có gì đáng kể, còn những cố tật đã trở nên không chịu nổi. Rõ ràng tình cảm cháy bỏng ban đầu đã làm cho lý trí phán đoán sai lầm, thần tượng hóa người mình yêu. Lúc sau, tình cảm ‘bị đóng băng’ cũng đã che mờ lý trí làm cho bạn thấy nàng thiếu hẳn những đức tính cần thiết và cũng không còn thùy mị chút nào. Thuở ban đầu, tình cảm đã cho lý trí mang lăng kính màng để nhìn ý trung nhân, rồi sau đó cho lý trí mang lăng kính màu trắng nhạt thậm chí là màu xám đen để bạn không còn khả năng thấy được ‘trời Sài Gòn đang mưa rồi chợt nắng’ nữa. Đây là một kịch bản mà con người đã bắt đầu trình diễn từ thuở khai thiên lập địa, và đã diễn đi diễn lại suốt dòng trường thiên lịch sử cho đến ngày nay.

Để con người không còn phải diễn lại một kịch bản đã quá nhàu nát với thời gian mà trong đó cả hai phía đều là nạn nhân, để mở ra một khung trời mới rộng rãi thênh thang, đạo Phật giới thiệu một dạng tình cảm không những không che mờ, ‘vặn vẹo’ lý trí, mà còn bổ xung, điều chỉnh, thậm chí làm cho lý trí trở nên hoàn hảo hơn. Đó là lòng từ ái, một thứ tình cảm mà mỗi người học Phật cần phải trang bị cho mình. Ở đây người viết không đề cập đến những ý nghĩa cao siêu khúc chiết mà các nhà tinh thâm Phật học hay những triết gia vĩ đại của Phật giáo đã luận giảng về từ bi hỷ xả. Người viết chỉ xin đề nghị một ý nghĩa rất đời thường: Từ ái có nghĩa là quan tâm đến những nỗi khổ niềm đau của một người, xem coi người ấy đang thực sự cần gì.

Lòng từ ái là dạng tình cảm đặc biệt của Phật giáo có hai khả năng có vẽ ngược nhau: Lọc bớt màu hồng khi quan hệ đang thân thiết mặn mà và xóa đi màu xám khi chưa xa mặt mà đã cách lòng. Tu tập được dạng tình cảm này thì lý trí của con người sẽ trở nên trong sáng hơn, nhận thức được chính chắn hơn.

Quả vậy, đối với người mà lý trí của chúng ta cho là tệ, xấu; khi hướng lòng từ ái đến chúng ta sẽ thấy người ấy hiện ra trong một góc độ khác và tính chất tệ, xấu sẽ không còn quá đáng như trước nữa; đồng thời chúng ta sẽ phát hiện ra những phẩm chất tích cực mà người ấy đã có tự bao giờ. Ngược lại là trường hợp lý trí của chúng ta nhận thức đối tượng ngang qua lăng kính màu hồng, trái tim thường hay tăng nhiệt của chúng ta đang làm công tác cao siêu hóa người ấy. Lý trí đang bị nhiễu sóng biến người ấy thành thần tượng, thành phi thường. Hãy cảnh giác. Đó là lúc chúng ta cần phải ‘điều hòa nhiệt độ’ và ‘chỉnh sóng’ bằng chính lòng từ ái. Thật sự, khi chúng ta nghĩ đến những nổi khổ, niềm đau, mà ‘thần tượng’ đang phải gánh chịu, nghĩ đến những điều mà ‘người phi thường’ đang thật sự cần, thì công tác cao siêu hóa sẽ hạ nhiệt. Lý trí được soi sáng.

Tóm lại, nhờ tu tập lòng từ, một dạng tình cảm được định nghĩa là: quan tâm đến những nỗi khổ niềm đau của một người, xem người ấy đang thực sự cần gì thì chúng ta sẽ hóa giải được ‘hội chứng nhận thức sai’ của lý trí. Nhờ tu tập dạng tình cảm này mà lý trí của chúng ta sẽ nhận thức các đối tượng một cách trong sáng hơn, hoàn hảo hơn. Từ bi đã hóa thân thành trí tuệ mà trí tuệ là sự nghiệp của tất cả những người con Phật.

Con Người Khám Phá

Con người và chức năng khám phá

Thể Như



Con người thích khám phá và càng lúc có vẽ như càng khám phá được nhiều. Khi đã khám phá chán những vùng đất mới, những châu lục mới trên mặt đất, người ta khám phá những cái thật cao, thật xa; tìm đường lên sao Hỏa, sao Ngưu. Nhưng con đường mà con người đang hằng ngày đi lại vẫn còn ê chề lắm nỗi. Ngoài con đường vật lý còn có con đường của trăm thứ bộn bề, của nhân tình thế thái và những nặng mang trong tâm hồn của triệu triệu con người đang dong ruỗi.

Mặt khác, con người thích thấy được, nghắm nghía được những cái thật nhỏ, thật chi li, xem xét đến chổ tỉ mĩ, đến tận cấu trúc gien của tế bào, của hạt tử rất khó thấy; nhưng con người vẫn còn khá thờ ơ đối với những động thái thô tháo của những hành vi và lời nói hằng ngày sờ sờ trước mắt mọi người.

Con người thích tìm kiếm những nguồn năng lượng mới từ hạt nhân nguyên tử, từ sức gió, từ mặt trời... để thỏa mãn nhu cầu tiêu pha càng lúc càng được kích thích qua các phương tiện truyền thông hiện đại nhất; cứ như thể từ điển của loài người không hề có chữ tiết chế; cứ như thể con người không hề biết gì đến khái niệm hướng-đi-để-đạt-đến-một-mục-tiêu-tối-thượng; cứ như thể loài người không có một mục tiêu nào khác ngoài những cái thỏa mãn về ăn uống, về nghe nhìn, về chiếm hữu và khuynh loát dưới những hình thái thô tháo hay tinh tế nhất của nó.

Con người thích khám phá những cái cao xa diệu vợi hay những cái bé tí ti mà tạo hóa ‘không muốn’ hiển bày; thích tìm kiếm những nguồn năng lượng mới bên ngoài, nhưng con người nói chung dường như quên đi rằng bản thân mình có một nguồn năng lượng lành mạnh, nguồn năng lượng hòa bình, an vui, phúc lạc, cần được khám phá.

Mặt khác, con người thích van vái quỷ thần thiên địa bất kể mênh mang mờ mịt thế nào, miển là bản thân, cha con, chồng vợ của mình có thêm chút hy vọng được may mắn, được lợi đắc. Mơ hồ huyễn hoặc tới đâu cũng mặc. Nhưng con người lại quên rằng bản thân mình, bản tâm mình chính là vị thần, vị thánh cần tôn thờ trước hết. Bậc có trí thường bảo chúng ta quay về, chúng ta cứ thích dong ruỗi.

...thờ cốt tượng đâu bằng thờ kinh sách học hành, dầu thờ kinh sách cũng chẳng bằng thờ ông thầy dạy đạo cho mình hiện tại đang sống. Nhưng nhờ ông thầy kia sao bằng thờ bản tâm của mình trong sạch. (Chơn Lý Thờ Phượng)

Thật ra con người nói chung ít hy vọng khám phá được thêm một châu lục nào hay vùng đất mới nào; càng ít hy vọng hơn nữa khi con người nói chung biết rằng những máy ảnh gắn trên vệ tinh đang đang soi rọi từng mét vuông trên mặt quả địa cầu. Với những con tàu vũ trụ những chuyên gia còn sục sạo cả mặt trăng, nơi có chị Hằng thỏ ngọc, cảnh giới tiên thánh của ‘ngày xửa, ngày xưa...’. Thân thể vật lý của con người cũng không còn là chốn thâm nghiêm nữa. Với kính hiển vi cực mạnh người ta đã soi mói đến từng cơ quan cực nhỏ của tế bào, xăm xoi cả những sợi thần kinh cảm giác. Tính chất thiêng liêng của thân thể vật lý không là gì nữa nếu không tính đến ‘con người’ trong thân thể đó. ‘Con người’ này thật ra là cả một thế giới, thế giới tâm thức. Một thế giới mà những máy ảnh gắn trên vệ tinh, những con tàu vũ trụ, những kính hiển vi cực mạnh không làm sao đụng chạm đến được. Dụng cụ khoa học dù tinh tế cũng chỉ đo được một ít diễn biến về sóng điện, cái võ bọc của cả một cơ cấu kỳ bí bên trong.

May mắn là mỗi người đang sở hữu một công cụ tương thích và hữu dụng để khám phá thế giới đó. Khám phá cơ cấu diễn biến của tâm thức; cũng có nghĩa là khám phá ra hướng-đi-để-đạt-đến-một-mục-tiêu-tối-thượng. Công cụ đó chính là chánh niệm. Với chánh niệm được tu tập một cách kiên trì, con người có thể quan sát mọi động tịnh từ thô đến tế của thế giới kỳ bí này. Có tính năng như một công cụ: càng được sử dụng cà sử dụng và càng sắc bén. Cũng vậy chánh niệm càng được sử dụng càng trở nên mạnh mẽ.

Con người có thể sử dụng chánh niệm để thường trực nhận ra, thường trực tỉnh giác, thường trực tiếp xúc với thực tại, với sựng đúng nghĩa; tức là thường trực sống. Tâm trí người ta thường phải có cái gì đó để tâm trí sống với, cái gì đó kích thích tâm trí; nghe cái gì đó, thấy cái gì đó, suy tư cái gì đó, toan tính cái gì đó. Nếu không bị cái gì đó kích thích, người ta có cảm giác buồn chán, vô vị. Những lúc không bị kích thích vị giác qua việc ăn uống, không bị kích thích thính giác qua việc nghe thấy; không bị kích thích thị giác qua việc nhìn thấy, những lúc không bị kích thích ý niệm sở hữu qua việc chiếm hữu và khuynh loát, người ta cảm thấy mất sức sống, mất năng lượng, cảm thấy buồn chán, tẻ nhạt. Chúng ta không nhận ra rằng có một nguồn năng lượng luôn luôn mới, rất tinh tế và thanh thoát ở ngay bên trong chúng ta. Khi chánh niệm liên tục mà không cần bất cứ sự kích thích nào thì người ta khai thác được nguồn năng lượng mới này. Thiền sư U Jotika từng nói: “Cái tâm rất là xảo quyệt, nó muốn những điều khác lạ và những thay đổi... nó luôn luôn khao khát những thú vui, và những kích thích. Đó là những gì mà hành giả thường gặp phải... Nếu quý vị có thể huân tập để tâm mình luôn tỉnh thức mà không cần bất cứ một sự phấn khích (hay kích thích) nào thì quý vị sẽ cảm nhận được một loại năng lực mới.”

Ở đây chúng ta cố gắng loại trừ chữ nếu và chữ nhưng trong những câu đại loại như: Nếu sử dụng chánh niệm thường trực thì sẽ được như thế này, như thế kia nhưng vì... Thường xuyên sử dụng chánh niệm thì chúng ta không còn phải sử dụng hai chữ nếu-nhưng trong lời nói và ngay cả trong suy tư của mình nữa. Hãy thủy chung với chánh niệm. Đừng sống hai lòng: một bên là chánh niệm, bên kia là phóng túng mê vọng. Những bậc trí nói chánh niệm vừa là công cụ vừa là kết quả. Công cụ để soi sáng vô minh và kết quả là nguồn trí tuệ, là nguồn năng lượng đang tiềm ẩn chờ đợi chúng ta khám phá. Khám phá là chức năng bẩm sinh của con người. Chúng ta sử dụng ngay chức năng khám phá bẩm sinh này để khơi dậy nguồn năng lượng mới, làm cho tỏa sáng. Ánh sáng của chư Phật và chư hiền thánh tăng xưa.

Đài Loan, Giáo Dục & Văn Hóa

Một Thoáng Đài Loan, Giáo Dục và Văn Hóa
Thích Minh Thành (Ph.D)
Chiều ngày 12 tháng 10, 2006, chuyến bay VN928 đưa đoàn đại biểu Học Viện Phật Giáo Việt Nam từ Thành Phố Hồ Chí Minh sang Đài Bắc tham dự hội thảo. Dẫn đoàn là Giáo Sư Tiến Sĩ Lê Mạnh Thác và ba vị thành viên là Đại Đức Thích Tâm Đức, Đại Đức Thích Minh Thành và Đại Đức Thích Giác Hiệp. Đón đoàn tại sân bay có Thượng tọa Triệt Định, thầy Hạnh Bình, thầy Giải Hiền, một số tăng ni, giáo sư và cư sĩ. Tối hôm đó đoàn trú ở chùa Nguyên Hanh ở phố Trường Thanh, Tân Trang. Đây là chi nhánh của Tổ Đình Nguyên Hanh Tự, Cao Hùng. Thật ra tổ đình gốc ở tận Chương Châu, tỉnh Phúc Kiến, Trung Quốc, có lịch sử trên 300 năm, từ triều đại vua Càn Long nhà Thanh.
.
Sáng hôm sau, 13 tháng 10, đoàn khởi hành đến Đại Học Hoa Phạm, Thạch Định, Huyện Đài Bắc. Đường lên trường rất ngoạn mục, bên rừng, bên núi, phong cảnh vừa u nhã vừa hiện đại với đường cao tốc Bắc Nam lúc ẩn lúc hiện phía bên kia đồi. Trường Đại Học Hoa Phạm nằm trên một sườn núi với những kiến trúc mang đầy tính nghệ thuật. Hỏi ra mới biết rằng Ni Trưởng Hiểu Vân là một nghệ sĩ học giả và tu sĩ. Một sự kết hợp kỳ lạ của những thiên tư hiếm có. Khi xây dựng Ni Trưởng chủ trương mỗi một toà nhà phải là một tác phẩm nghệ thuật, mỗi một gian phòng phải là một tác phẩm nghệ thuật. Thảo nào, ngay cả nhà bếp và dãi nhà ăn cũng được thiết kế đẹp mắt, hài hoà.
.
Thầy Hạnh Bình, một tăng sinh Việt Nam kỳ cựu, cho biết Trường này có 8 toà nhà lớn và đang xây thêm một toà nhà mới để mở rộng thư viện. Trường có 3 viện, mỗi viện khoảng 10 khoa, tổng cộng có khoảng 30 khoa với trên 4.000 sinh viên; nổi bật là khoa Đông Phương Nhân Văn Học chuyên đào tạo cấp Cao Học và Tiến Sĩ. Thầy Hạnh Bình đang làm cầu nối để giúp tăng ni sinh Việt Nam có được học bổng; mỗi học bổng giá trị khoảng 4.000 USD/năm. Như vậy tăng ni sinh có nguyện vọng du học Đài Loan chỉ cần chi thêm khoảng 1000 USD/năm nữa là đủ.
.
Nội dung hội thảo đầu tiên tập trung về sự nghiệp hành hoạt của Ni Trưởng Hiểu Vân một trong những nữ nhân kỳ tài của Đài Loan. Sinh trưởng ở Hồng Kông, ni trưởng đi tham học nhiều nước trên thế giới, một thân một mình phận nữ. Từ Bắc Mỹ đến Pháp, Bỉ, Đức, từ Ấn Độ đến Hy Lạp, Thổ Nhĩ Kỳ... cuối cùng đến Đài Loan khai sơn Hoa Phạm. Những thành tích học nghiệp cũng như đạo nghiệp của Ni Trưởng thật đáng kính ngưỡng. Nhiều học giả thâm niên đã phát biểu những lời tâm phục, khẩu phục.
.
Nội dung hội thảo thứ hai về giáo dục và văn hóa Phật giáo được sự tham gia của những vị giáo sư tên tuổi đến từ Bắc Mỹ, Canada, Nhật Bản, Liên bang Nga, Mã Lai, Trung Quốc và Việt Nam. Hấp dẫn là bài tham luận của giáo sư Lewis R. Lancaster (Hoa Kỳ) với đề tài “Giáo dục Phật giáo và khoa học kỷ thuật”. Giáo sư Lê Mạnh Thát với bài phát biểu về “Bản dịch kinh Pháp Hoa của Ngài Pháp Liên” đã thu hút sự chú ý và sự nể phục của giới học giả. Ngoài ra còn có giáo sư A.W. Barber (Canada) với đề tài “Tư tưởng của Ngài Viên Lâm đối với việc nghiên cứu Phật giáo” và nữ giáo sư Elise De Vido (Hoa Kỳ) với đề tài “Ảnh hưởng của Thái Hư Đại Sư đối với Phật giáo Việt Nam”. Dĩ nhiên, trong bài ký sự này người viết không thể kể hết những bài tham luận hấp dẫn khác.
.
Tối hôm ấy đoàn Việt Nam về lại chùa Nguyên Hanh trong tâm trạng sung sướng với đầy ấp những điều mới lạ vừa tiếp nhận được trong ngày. Chưa hết sau buổi ‘dược thực’ đoàn Việt Nam còn được tham dự buổi nói chuyện của giáo sư Lewis R. Lancaster với đề tài liên quan đến những bước chuyển động lớn trong lịch sử phát triển của đạo Phật. Giáo sư cũng giới thiệu phần mềm vi tính GIF độc đáo đang được khoa Phật học thuộc đại học Berkeley Hoa Kỳ phát triển. Phần mềm này có khả năng tái hiện lại từng bước thăng trầm, từng năm thay đổi của một vị trí địa lýt định trên bề mặt địa cầu.
.
Buổi nói chuyện đã khép lại. Giáo sư Lancaster bước ra phòng giải lao, cầm chén trà hòa mình vào đại chúng, góp vài câu chuyện u mặc xuề xoà như đang tan loãng vào bầu không khí chung quanh. Vị giáo sư với vóc dáng cao gầy, mái đầu màu tuyết trắng, đôi mắt tinh anh với nhiều vết chân chim, mỗi lần cười là cả gương mặt cười theo, tự thân đã là một tác phẩm nghệ thuật đầy thiền vị. Hơn nữa, với cách diễn đạt đỉnh đạt, giọng nói trầm tỉnh an hòa thật sự giáo sư đã để lại trong lòng người viết những ấn tượng mạnh mẽ: một phong cách thanh cao nhưng không kiểu cách, sở hữu một kho trí tuệ thậm thâm mà vẫn hòa điệu nhẹ nhàng như đã thân thiết tự bao giờ.
Những ngày còn lại, đoàn tiếp tục đi thăm viếng những trọng điểm giáo dục văn hóa của Phật giáo Đài Loan như:
.
1. Đại Học Phật Quang rộng 56 mẫu đất trên đỉnh núi Lâm Mỹ, tỉnh Nghi Lan, nơi có vị tân hiệu trưởng nổi tiếng Ông Chánh Nghĩa. Nơi đây có câu chuyện “tam cố thảo lư” thú vị của Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân và câu chuyện toà nhà thư viện của hai vị bồ-tát tại gia. Đại học hiện có hơn 20 khoa thuộc hai lĩnh vực nhân văn học và xã hội học. Khoa Tôn giáo học chú trọng 4 nội dung: (1) Môn nghiên cứu căn bản; (2) Môn nghiên cứu giao thoa giữa các tôn giáo; (3) Môn ứng dụng trị liệu; và (4) Môn nghiên cứu thực địa điền dã. Ngoài việc đào tạo chuyên gia tôn giáo học, Đại Học còn thúc đẩy việc giao lưu giữa các tôn giáo về phương diện học thuật, văn hóa...
.
2. Đại Học Tăng Già thuộc Pháp Cổ Sơn ở thôn Tam Giới, xã Kim Sơn, Huyện Đài Bắc. Đoàn được Thượng Tọa Thích Quả Nguyên, thiền chủ và Thầy Thích Hạnh Giới, một vị tiến sĩ Tôn Giáo Học từ Hannover, Đức, đón tiếp. Điều thú vị là cả hai đều gốc là người Việt và vẫn giữ được khả năng diễn đạt tiết trôi chảy. Đoàn được xem đoạn phim giới thiệu mà chất lượng đã đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật nhà thiền. Những hạng mục xây dựng nơi đây đều triệt để tuân thủ những nguyên tắc bảo tồn sinh thái và thể hiện đậm đà phong cách tiêu dao thanh thoát của chốn tòng lâm.
.
3. Phật Học Viện Viên Quang nơi Thầy Hạnh Bình đang giảng dạy, đoàn được Thượng toạ Hiệu Phó đón tiếp thân mật, và dẫn đoàn thăm viếng nội viện. Một dãi lầu khoảng Tăng xá đang thi công xây dựng sắp sửa hoàn tất. Đặc biệt Học Viện Viên Quang có một pho tượng cổ Quán Âm Nghìn Mắt Nghìn Tay bằng gổ cao khoảng 3 mét, chạm khắc thật tinh xảo và pho tượng ngài Huyền Trang rất ấn tượng.
.
4. Phật Học Viện Phúc Nghiêm do Đại Lão Hòa Thượng Ấn Thuận khai sơn tọa lạc tại số 3, ngõ 365, đường Minh Hồ, thành phố Tân Trúc. Tuy là một học viện nhưng cách kiến trúc giống như một thiền viện với phong cách trầm mặc, hài hòa với cảnh trí thiên nhiên. Từ tháng 9 năm 2000, Học Viện đã chuyển thành đại học với chương trình 4 năm ở cấp đại học và 3 năm ở cấp cao học.
.
5. Đại Học Nam Hoa tọa lạc ở số 32 xã Trung Khanh, thị trấn Đại Lâm huyện Gia Nghĩa, nằm trên một mãnh đất rộng 60 mẫu. Đây là một Đại Học tầm cở ở Miền Nam Đài Loan do Đại Lão Hòa Thượng Tinh Vân sáng lập. Thư viện có 727 chổ ngồi, lưu trữ 155 ngàn quyển sách trong đó có 1.880 thuộc dạng báo chí. Cứ mỗi năm nhà trường có ngân quỷ khoảng 10 tỷ VNĐ để bổ xung thêm sách báo. Đại học hiện có hơn 40 khoa thuộc 4 lĩnh vực: Quản Lý, Nhân Văn, Khoa Học Xã Hội và Phát Triển Giáo Dục với khoảng 6 ngàn sinh viên tham học. Ở đây Phật học không đơn thuần là Kinh Luật Luận mà phải nghiên cứu trong một mối tương quan vì vậy mà một sinh viên phải chọn các chuyên ban như: Phật học xã hội học, Phật học kinh tế học, Phật học lịch sử học, Phật học tâm lý học...
.
6. Tổ Đình Nguyên Hanh tọa lạc tại số 7 ngõ Nguyên Hanh, phường Cổ Sơn, Cao Hùng hiện do Hòa Thượng Phổ Diệu tọa chủ. Được Đại Sư Kinh Nguyên xây dựng năm 1743 để phụng thờ Bồ-tát Quán Thế Âm, Nguyên Hanh được xem là một trong những ngôi chùa xưa nhất ở Cao Hùng. Hiện nay chùa cao 5 tầng lưng lững trên sườn núi Thọ Sơn. Vị tri khách kể rằng hồi mới sáng lập nguyên vùng này là gò bãi hoang sơ, cửa nhà phường san sát dưới kia đều nằm trong cuộc đất mà khi xưa nhà chùa khai khẩn. Tuy chuyên tu tịnh độ nhưng nhà chùa có những hoạt động đa dạng, từ việc giáo dục ngang qua Phật Học Viện Nguyên Hanh đến những khoá Phật thất, Bát quan trai định kỳ; từ việc in ấn bán nguyệt san “Diệu Lâm Tạp Chí” đến việc phiên dịch Thánh Tạng Pali. Ngoài ra còn các hoạt động từ thiện xã hội, đặc biệt là xe phát thuốc lưu động dành cho
những vùng sâu.
.
7. Phật Quang Sơn Tự ở thôn Đại Thọ, Cao Hùng, là một ngôi già lam quy mô nhất nhì Đài Loan và thế giới với hơn 20 toà điện, đường, lầu các trang nghiêm; trong đó Phật Học Viện Tòng Lâm là nơi đào tạo những tăng sĩ chuyên tu, thực học. Được sáng lập năm 1967 học viện tiếp nhận sinh viên từ Đài Loan và nhiều nước khác... đồng thời cũng đã có hơn 200 chi nhánh ở khắp nơi trên thế giới. Tờ nhật báo “Nhân Gian Phước Báo” của hệ thống Phật Quang Sơn phát hành 200.000 ấn bản mỗi ngày. Quả thật Đại Lão Hòa Thượng Thích Tinh Vân đã có một sự nghiệp kỳ vĩ cống hiến cho Phật giáo Đài Loan và thế giới.
.
8. Trung Đài Thiền Tự ở số 1, đại lộ Tân Lý Trung Đài, thị trấn Phố Lý, huyện Nam Đầu, do Hòa Thượng Thích Duy Giác sáng lập. Ngôi chùa tọa lạc trên một đỉnh núi lớn, hai bên có hai đỉnh núi nhỏ hộ vệ; đứng trước cổng chùa khách hành hương có thể phóng tầm mắt bao trùm cả thị trấn Phố Lý xa xa. Đây là một đại già lam được xây dựng hoành tráng, kỳ vĩ bậc nhất Đài Loan, có khi được mệnh danh là Vatican của Phật giáo. Tổng thể kiến trúc là một dung hợp những nguyên lý của nghệ thuật, văn hóa, khoa học và hoằng pháp. Có thể nói mỗi một hạng mục kiến trúc bên ngoài, mỗi một phong cách trang hoàng bên trong, đều là biểu hiện sống động của một ý tưởng nào đó trong hệ thống tư tưởng Phật giáo. Thượng Tọa Thích Kiến Đạt đã đưa đoàn vào nội viện chiêm bái, đặc biệt là được lên tận đỉnh của toà tháp chính cao 108 mét gồm 37 tầng. Đoàn Việt Nam bổng cảm thấy ấm lòng khi Thượng tọa cho biết rằng tất cả 10 ngàn pho tượng trong Điện Vạn Phật đều do bàn tay của nghệ nhân Việt Nam thực hiện. Phương châm hoạt động của ngôi đại tự này gồm: Học thuật hóa, giáo dục hóa, nghệ thuật hóa, khoa học hóa và sinh hoạt hóa; được gọi chung là “ngũ hóa”. Nội viện đang có 1.200 tăng ni, trong đó có 300 vị là sinh viên của Phật học viện tại đây.
.
Dọc theo tuyến thăm viếng chính đoàn còn ghé thăm những điểm phụ như: (1) Đầm Nhật Nguyệt ở Phố Lý, chiêm bái chùa Huyền Trang, nơi thờ xương sọ của vị Đường Tăng huyền thoại; vọng bái lầu Hàm Bích và Điện Từ Ân; (2) Bệnh Viện Từ Tế Đài Bắc 800 giường ở số 289, đại lộ Kiến Quốc, Huyện Đài Bắc, được xem là đội tiền tiêu của nền y học Phật giáo; (3) Đài Truyền Hình Pháp Giới ở số 556, đại lộ Phục Hưng, Cao Hùng, là nơi phát tích của những nhà hùng biện Phật giáo Đài Loan; (4) Đài Truyền Hình Đại Ái ở số 2 đường Lập Đức, Đài Bắc, là điển hình vượt khó để đem ánh sáng từ ái đến mọi nơi.
.
Lời tạm kết:
.
Mỗi nơi là mỗi một câu chuyện làm xao xuyến lòng người. Câu chữ trên mặt giấy làm sao nói hết. Vòi vọi uy nghiêm về học thuật như hệ thống Phúc Nghiêm, vừa khúc chiết vừa nhẹ nhàng như thống Pháp Cổ, vĩ đại mà hiền hòa như hệ thống Phật Quang, bình dị bao dung như hệ thống Nguyên Hanh, hoành tráng và căn cơ như hệ thống Duy Giác, Hài hòa cộng hưởng như hệ thống Hoa Phạm, lòng từ biến mãn như hệ thống Từ Tế. Mỗi nơi mỗi vẽ đẹp, mỗi sắc thái, mỗi cách hoằng hóa nhân sinh. Thế giới Phật giáo Đài Loan dường như là một bộ sưu tập phong phú những quang phổ khác nhau, sắc thái khác nhau của chư bồ tát: Quan Âm, Văn Thù, Phổ Hiền, Dược Vương, Địa Tạng... Bức tranh điển hình của một nền Phật giáo trăm hoa đua nở.

Đạo Từ Của Pháp Chủ TGN


Kính...

Nhân dịp Đại Lễ Kỷ Niệm Ngày Đức Tôn Sư Minh Đăng Quang Vắng Bóng Lần Thứ... trong giờ phút trang nghiêm và trọng thể này, trước hết tôi xin có lời tán thán khen ngợi công đức tu hành, công đức gìn giữ hạnh, và công đức hoằng hóa chúng sinh, lợi đạo ích đời của quý Hòa thượng, Thượng tọa, Đại đức, Tăng Ni và đệ tử Khất sĩ trong và ngoài nước.

Tôi thường tâm niệm rằng không riêng bản thân tôi mà tất cả Tăng Ni, thiện nam, tín nữ trong ngôi nhà Khất sĩ đều đang thừa tự sự nghiệp mở đạo và hoằng đạo của Tổ sư Minh Đăng Quang, đang hết lòng gìn giữ và xiển dương giáo pháp của Tổ Thầy. Tôi đã nổ lực nhiều chục năm ở Việt Nam, nổ lực liên tục nhiều chục năm ở ngoài nước. Giờ đây, tuổi đã cao, sức đã cạn dần, tôi vẫn phát nguyện sẽ tiếp tục nổ lực không dám mệt mõi cho đến khi theo về với Tổ với Phật.

Hồi còn hiện tiền Tổ sư thường dạy huynh đệ tôi rằng: “Cái sống là phải sống chung, cái biết là phải học chung, cái linh là phải tu chung”. Tôi tâm tâm niệm niệm lời dạy vàng ngọc đó nên cảm thấy rất vui mừng khi ở quê nhà Tăng Ni Khất Sĩ đã đồng tâp lực sống chung tu học, đoàn kết một lòng với nhau, không còn tình trạng giáo đoàn phân lập mà đã trở thành một giáo đoàn duy nhất là Giáo Đoàn Khất Sĩ, một cảnh giới duy nhất là cảnh giới Khất Sĩ theo tông chỉ mà Tổ sư đã đề ra: NỐI TRUYỀN THÍCH CA CHÁNH PHÁP, ĐẠO PHẬT KHẤT SĨ VIỆT NAM. Một niềm vui nữa là Giáo Đoàn Khất Sĩ ở Việt Nam đã hòa nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, cụ thể hóa tư tưởng sống chung, tu chung và học chung của Tăng Đoàn Khất Sĩ từ thời Phật cho đến ngày nay với một biên độ rộng lớn hơn.

Trong dòng thác hiện đại hóa và toàn cầu hóa hiện nay, tôi khuyên nhủ quý Tăng Ni và Thiện tín Khất Sĩ hãy tiếp tục nghiêm trì giớt Phật, giữ gìn nề nếp đạo hạnh của truyền thống Khất sĩ; hãy tiếp tục cần cầu học hỏi trăm bạn, ngàn thầy, tiếp tục hòa nhập vào Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam; tổng hòa vào ngôi nhà Phật giáo Thế giới, vào mạng mạch chung của Phật Pháp; hết lòng giáo hóa nhơn sinh, báo ơn thầy tổ. Tôi cũng căn dặn hãy tuyệt đối tránh tình trạng hời hợt mô phỏng sao chép theo những hình thức khác, những sắc thái khác một cách thô thiển nông cạn. Mỗi vị hãy tu tập và hành hóa với ý thức rằng một trong những đóng góp có ý nghĩa nhất của người Khất Sĩ trong lòng Giáo Hội Phật Giáo Việt Nam, trong lòng dân tộc Việt Nam, cũng như trên thế giới là đóng góp bản sắc của mình, đóng góp những tinh hoa, những nét đẹp mà Thầy tổ đã có công thiết lập và vun bồi.

Tôi tin rằng những người con ưu tú của truyền thống Khất Sĩ và tất cả những người đang kế tục đạo nghiệp của Tổ sư Minh Đăng Quang đều một lòng giữ gìn bản sắc đạo hạnh, phương pháp giáo hóa và những pháp môn hành trì trong sáng thanh tịnh của Tăng Đoàn Khất Sĩ xưa nay. Tôi tin rằng những người Khất sĩ sẽ thực hiện tốt việc tu tập, hoằng hóa và trách nhiệm thừa tự thiêng liêng của mình. Tôi xin chúc lành, chú nguyện cho quý Tăng Ni, thiện nam tín nữ Khất Sĩ tứ đại điều hòa, tu hành tin tấn, viên thành đạo nghiệp.

Nam Mô...

Chiều Cuối Năm


TẢN MẠN CHIỀU CUỐI NĂM
Thể Như
“Bèo hợp rồi tan”, bửa tiệc nào rồi cũng tàn... Thế là chúng ta đang nói lời chia tay với năm cũ, cái năm mà trước đây 12 tháng chính chúng ta gọi là năm mới. Theo vòng quay đều đều của thời gian, 12 tháng trước mắt giờ đây mới được gọi là năm mới. Cứ như thế mà cái vòng quay cũ-mới-mới-cũ cứ quay vòng một cách lặng lẽ tự nhiên, chỉ có chúng ta dường như rất là hớn hở khi gọi ‘mới’ và rất là ‘mất khí thế’ khi gọi ‘cũ’ cho cái 12 tháng loay quay. Cũng cái 12 tháng đó, lúc đầu chúng ta gọi ‘mới’ để mà vui, lúc chót chúng ta gọi ‘cũ’ để cảm thấy tẻ nhạt rồi thờ ơ xếp lại. Có người tập trung ánh mắt vào chữ ‘mới’ để mà tung hê: “Năm nào chẳng phải năm mới”. Thậm chí còn nói rằng tháng nào chẳng phải tháng mới, ngày nào chẳng phải là ngày mới... rồi chi li hơn nữa một triết gia Phật giáo nheo nheo đôi mắt triết học nói: “Sát na nào chẳng phải là sát na mới.” Nếu năm nào cũng là mới thì làm gì mà tưng bừng rộn ràng như thế (năm vừa rồi cũng mới cơ mà!). Tưng bừng đến đỗi trên những trang báo chiếm ưu thế là những lời ‘có cánh’: Tất cả không gian, thời gian đều là xuân và chỉ là xuân mà thôi... xuân miên viễn, xuân vĩnh cữu, xuân bất tận... Nụ cười gắn mãi trên môi...
.
Ngược lại người khác sẽ nói: “Bèo hợp rồi tan”, nghĩ rằng mình phải nhìn thấy mặt bên kia của cái bảng hiệu ‘mới’ để nhận ra cái ‘cũ’ triết học ở đàng sau. Mười hai tháng vừa qua đã trôi với một tốc độ đều đều như tất cả cái 12 tháng trong quá khứ thì cái 12 tháng trước mắt khó có thể là biệt lệ. Chiến tranh và hận thù vẫn gay gắt, môi trường tiếp tục bị phá hủy, xung đột giữa người với người tiếp tục leo thang theo số lượng bom đạn mà loài người đang tích lũy. Thiên nhiên đã phản ứng bằng những trận sóng thần cuồng nộ, những trận động đất kinh hoàng. Những loại vi khuẩn gia cầm heo bò đã xâm phạm đến con người. Còn tiến trình lão hóa vẫn ‘hoạt động’ âm thầm từng ngày từng tháng nơi từng con người. Và, con người vẫn tiếp tục nắm níu ‘tuổi xuân’ suốt 12 tháng qua. Chắc gì 12 tháng trước mắt sẽ khác đi. Có khác thì chỉ khác cách biểu hiện ra ngoài chớ sẽ không hề khác cái nội dung bên trong khi tham sân si và tà kiến càng lúc càng được khẳng định bằng sức mạnh của nòng súng và quyền lực kinh tế. Nếu nhìn thẳng vào đại cuộc thì không thể nói là ‘mới’ được. Vũ điệu man dại của tham sân và tà kiến vẫn diễn xuất liên tục và khắp nơi trên bề mặt quả địa cầu.
.
Nếu ‘đại cuộc’ ai nấy đều ra sức làm trẻ mãi làm mới mãi quyền lực chính trị và kinh tế thì ‘tiểu cuộc’ nơi mỗi cá nhân ai nấy hầu như cũng muốn ‘trẻ mãi’ ‘mới mãi’ cái diện mạo vật lý của mình.
.

Khi ‘thêm một tuổi’ (nói cách khác là ‘bớt một tuổi’) thì cách nhìn của chúng ta cũng phải thay đổi để có thể thích nghi với cuộc sống. Thời son trẻ đã đi qua. Những ngôi sao bóng đá, cải lương, tân nhạc của ‘thời xưa ấy’ giờ đã hom hem. Bất ngờ gặp lại chúng ta thót ruột giật mình. “Trời ơi! tài năng và diểm tuyệt như thế mà lại như vầy được sao!” Thần tượng ngày xưa lung linh huyền ảo trên sàn diển rực ánh đèn, giờ đây chỉ xuất hiện trên truyền hình trong những tiểu mục ‘đàm thoại’, ngồi một chổ kể lại chuyện ‘thời xưa ấy’...
.
Chúng ta quên rằng bản thân mình cũng đã thay đổi không kém. Một sự thật mà chúng ta luôn luôn miễn cưởng khi phải thừa nhận. Hồi trẻ có lần bạn nhìn vào bức ảnh tuổi 30 của chính mình và chép miệng ‘không ăn ảnh’ ‘sao coi già quá’ ‘xấu quá’, ném bức ảnh vào đâu đó rồi âm thầm ‘hờn’ người thợ ảnh (đã không làm mình tươi tắn như trước). Thời gian trôi qua, năm mới dọn nhà ăn tết, bất ngờ cầm lại bức ảnh cũ bạn tươi cười khoe mẽ với mấy bà bạn: “mình đấy” mà trong lòng rộn rã niềm vui vì mình ‘coi rất trẻ trung’ và sáng chói. Đâu có ngờ đó chỉ là bước ảnh vừa ‘không ăn ảnh’ vừa ‘coi già quá’, ‘xấu quá’ mà mình đã từng ném bỏ và hờn dỗi năm xưa.
Đã cùng mấy bà bạn đi nghe thuyết pháp bao nhiêu lần về vô thường, về sinh già bệnh chết, thế mà chúng ta vẫn thấy con người của mình ‘xưa sao nay vậy’ hay ‘xưa răng nay rứa’ và đưa mắt nhìn ra phố thị ngoài kia mà rằng: ‘mặc cho dòng đời ngoài kia thay đổi’. Chữ ‘dòng đời ngoài kia’ khiến cho chúng ta cảm thấy ‘yên chí’ vì mình đang ở ‘trong này’, mặc nhiên xem ‘trong này’ là bất biến.
.
Ở tuổi ô mai, bạn đã từng về quê thăm ông bà ngoại và trí óc non nớt đã từng thầm có ý nghĩ: “Nữa lớn, mình không chịu lom khom, hom hem, nhăn nheo như vậy đâu”. Đức Phật dạy chúng ta những điều không thể tránh được:
1. Già là một tiến trình tự nhiên, không ai chạy thoát được.
2. Bệnh là một tiến trình tự nhiên, không ai chạy thoát được.
3. Chết là một tiến trình tự nhiên, không ai chạy thoát được.
4. Phước, không ai tránh được.
5. Họa, không ai chạy thoát được.
6. Nhân duyên, không ai chạy thoát được.
Đừng phí công ‘chạy’ mà phải biết chấp nhận và khi chúng ta hoàn toàn chấp nhận thì chúng ta mới có thể tránh được những việc chẳng những hoài công mà còn làm cho chúng ta mất phương hướng.
.
Nhiều người thời nay, đặc biệt là giới điện ảnh đã vận dụng hết ’12 thành công lực’ để ở mãi với thời trẻ trung mơn mởn. ‘Trẻ mãi’là một cụm từ nghịch lý và bất khả. Biết vậy mà người ta vẫn ‘chiến đấu không khoan nhượng’ trong mặt trận ‘trẻ mãi’ này. Người ta đã cho phép những lưỡi dao mổ bằng thép cắt ngang, vá dọc, lắp, ghép... trên gương mặt và thân thể của mình; cho phép những mũi kim tiêm bơm vào khóe mắt, rìa mày một lượng độc tố vừa đủ mạnh để làm tê liệt những bó cơ nhạy bén và tinh tế trên khuôn mặt và quyết liệt ‘ủi phẳng’ toàn bộ những ‘địa phương’ còn lại. Thế là cả khuôn mặt trở nên trơ phổng ra, đôi mắt không còn nheo nheo biểu cảm được nữa. Thường thì người ta làm ‘trẻ mãi’ một cách ‘bí mật quốc phòng’ và mong mọi người xem đó là ‘nét đẹp thiên thần’ trời phú của mình. ‘Nam nhi chi chí’ thời nay cũng nhiệt tình tham gia ‘mặt trận’ này với những món ‘tiên đơn thần dược’ để... trị hói và những đầu tóc giả không có tác dụng ‘trẻ hóa’ mà chỉ có tác dụng... ‘đánh lạc hướng’ mà thôi.
.
Những cái vòng 12 tháng vẫn đều đều đi qua dù đó là năm mới hay năm cũ. Nó vốn bản nhiên, không bi quan, không lạc quan; cũng không nắm níu gì cả. Nếu lạc quan sản sinh ra những từ ngữ ‘có cánh’ trong báo chí ngày xuân thì bi quan sản sinh ra những từ ngữ ướt sũng nước mắt trong những bài ‘tuyệt tình ca’. Cả hai đều cố nhuộm màu và cách điệu sự thật, ngoài tác dụng thưởng ngoạn cho người đọc còn có những tác dụng phụ, nào ai biết. Sao người ta không chịu để sự thật tự hiển hiện diện mục của nó mà cứ phải can thiệp vào, cứ mãi ‘bôi son’ cho nó trở nên ‘trẻ mãi’ ‘xuân vĩnh viễn’ ‘xuân bất tận’ hay ‘bôi tro’ cho nó để nó thành đối tượng rên rĩ: ‘Ta có chờ đâu có đợi đâu/ Xuân ơi, ngươi đến chỉ thêm sầu...’ Mặt khác, khuynh hướng đổ công sức ra nắm níu quá khứ trẻ trung vàng son của ‘thời xưa ấy’ tuy vẫn nhận được sự cảm thông nhưng rõ ràng đó là con đường vô vọng và đau khổ. Hãy quay về con đường mà đức Phật để lại, lắng lòng nghe khắp nơi trong không gian những rung động của vô thường, những bước chân của tiến trình sinh lão bệnh tử, thành tựu hoại không. Đó là bước tiến của một đoàn đại quân ‘không ai điều đình được’ như kinh Nhất Dạ Hiền Giả đã trình bày. Con đường mà đức Phật để lại là con đường của trí tuệ thong dong. Chấp nhận biến đổi bên ngoài, vui vẽ với quá trình lão hóa bên trong là một trong những mục tiêu phấn đấu quan trọng nhất của một đời người. Thành tựu được mục tiêu này thì chúng ta có được tự do và hưởng được một trong những niềm vui lớn nhất của kiếp sống dù đó là năm cũ hay năm mới.

Tuesday, May 1, 2007

Humor Hai Thế Hệ

Thầy và trò

Thầy 100 tuổi ngồi chìm hẳn vào chiếc xe lăn, tay chân không còn cử động được, thều thào nói với đứa đệ tử đã ngoài 90 tay đang run run đẩy xe phía sau:

-- Ờ... ờ... Con trẻ người non dạ, vẫn còn non nớt, yếu kém lắm...
-- Thưa Thầy, Thầy đã dạy con câu này hồi con 15 tuổi đến nay.
-- Ờ... ờ... độ rày con còn yếu hơn hồi ấy nữa, tay con run run kìa.
-- !!!
(Huệ Té sưu tầm)

Khung Cửa Sổ


LỜI KỂ BÊN KHUNG CỬA SỔ
Thể Như
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là các lậu hoặc phải do phòng hộ được đoạn trừ? Ở đây có vị Tỷ-kheo, chơn chánh giác sát, sống phòng hộ với sự phòng hộ nhãn căn. Này các Tỷ-kheo, nếu vị Tỷ-kheo ấy sống không phòng hộ với sự phòng hộ nhãn căn, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não có thể khởi lên. Nếu sống phòng hộ với sự phòng hộ nhãn căn, các lậu hoặc tàn hại nhiệt não ấy không còn nữa. (Trung Bộ Kinh tập 1, Kinh Nhất Thiết Lậu Hoặc)
Những giọt mưa to nặng đã đập xuống mui xe, người tài xế bật quạt nước xóa bớt bụi nước làm mù mịt kính trước. Chẳng bao lâu mưa xối xả, hai cái càng quạt nước đã làm việc hết côt nhưng kính xe vẫn như bị một cái mền trắng phập phềnh đấp kín. Mọi người bên trong không thể thấy gì cả ngoài những màn nước trắng xóa từng đợt rào rạt bao trùm. Chiếc xe bổng rung mạnh. Tiếng va đập, tiếng những mảng thép nghiến vào nhau, tiếng kính vở, tiếng la hét thất thanh. Tiến có cảm giác bị nâng lên. Rồi mọi chuyện chung quanh trở nên yên tĩnh lạ thường. Giờ đây chỉ có tiếng rầm rì nho nhỏ của cái máy lạnh. Tiến mở mắt ra. Mọi vật đều có một màu trắng nhợt nhạt. Cô y tá nhỏ nhẹ: “Chú không nên cố cử động”. Câu nói như một lời an ủi cảm thông vì dù có cố gắng Tiến cũng không cử động được. Tay chân thân thể và cả phần đầu đề bị giữ chặt. Đặc biệt cần cổ đã được ‘gia cố’ bằng một cái niềng chắc chắn.
.
Phòng có hai giường, đặt sát khung cửa sổ duy nhất của gian phòng là chiếc giường của một bệnh nhân khác tên Đoài, một người đã qua hết tuổi trung niên, có giọng nói đều đều, chậm chậm. Thời gian trong bốn bức tường bệnh viện trôi thật chậm chạp. Tất cả những gì mà Tiến có thể nhìn thấy trong ngày là một khoảng trần nhà màu trắng nhợt nhạt. Nếu muốn ‘thay đổi không khí’ cho đôi mắt thì Tiến phải dùng khoảng cử động rất hạn chế của cánh tay cầm một cái gương phản chiếu soi chếch sang giường bên.
.
Mấy hôm sau, ông Đoài đã ngồi dậy được, và thường xuyên xoay người sang khung cửa sổ nhìn xuống cảnh trí bên dưới. Hai người cùng cảnh ngộ đã biết về nhau nhiều hơn. Ông Đoài là một nhân viên làm việc trong một kho hàng. Ông bị tai nạn khi một khối hàng lớn nặng nhiều tấn đổ ập lên người. May sao, ông thoát chết nhưng phải nằm viện từ cuối năm ngoái.
.
Từ ngày đầu sau khi tỉnh dậy đôi mắt của Tiến đã bắt đầu thích khung cửa sổ của ông Đoài. Mỗi khi Tiến muốn ‘nhìn xuống’ khung cửa thì phải ‘thông qua’ lời kể của ông ta. Ngày giờ trong bệnh viện như kéo dài ra; dài lê thê. Tươi tỉnh nhất trong ngày là khoảng thời gian nghe giọng nói trầm trầm đều đều của ông Đoài miêu tả và tường thuật những cái đang diễn ra dưới khung cửa sổ. Nơi đó có một cái công viên bên cạnh một một trường học cấp một (theo lời kể của ông Đoài). Ngoài ra khoảng tươi tỉnh đó ra, thời gian còn lại của Tiến trôi lừ đừ vô vị từ sáng đến tối, nhạt nhẽo đến độ không chịu nỗi, nhất là phải đối diện liên lục với cái khoảng trắng nhợt nhạt của trần nhà.
.
Ông Đoài có vẽ cố gắng tường thuật cái ông nhìn thấy bên dưới để ‘phục vụ’ cho Tiến: “Đó là một công viên nho nhỏ nhưng xinh xắn với những luống cỏ xanh ở giữa có điểm những bụi hoa soi nhái, mồng gà... có những đoạn đường tản bộ trải sỏi; hai bên là hai hàng cao kiểng...”. Lời kể nhất thời có làm giảm cái đơn điệu tẻ nhạt của cuộc sống trong bốn bức tường hẹp nhưng dần dà Tiến có cảm giác chán nghe cái giọng nói đều đều cố hữu của ông. Càng chán nghe Tiến càng thèm được nhìn trực tiếp bằng đôi mắt của mình. Ngoài cảm giác nhàm chán đã nhen nhúm cảm giác ganh tỵ tự hồi nào. Tiến suy nghĩ: Tại sao ngẩu nhiên ông lại ngày ngày được sở hữu cái mà mình thèm muốn? Tại sao mình không được thấy trực tiếp mà phải có ông làm trung gian kể lễ? Mình phải chịu tình cảnh này cho đến khi nào? Thế là, trong thâm tâm của Tiến, ông Đoài là vật cản. Có lúc mơ hồ Tiến cảm giác không muốn có mặt ông ta.
.
Mấy đêm nay, ông Đoài ho nhiều. Ban ngày, tuy giọng nói yếu đi ông vẫn không quên ‘tiết mục tường thuật cuộc sống’, cứ đúng giờ là ông nhìn xuống cửa sổ rồi kể chuyện cho Tiến nghe: “Có một vài người đang ngồi bên băng đá, những đứa bé chơi trò trốn tìm rượt đuổi quanh mấy gốc cây nhỏ cạnh hòn non bộ... Rồi một nhóm khá đông người đi vào công viên; họ đi vào cái hồ tắm ở giửa. Con chó nhảy ùm xuống hồ ngoạm lấy trái banh mang lại cho chủ...” Giọng nói yếu dần và câu chuyện không mạch lạc chấm dứt nữa chừng khi ông Đoài thiếp đi vì mệt mõi.
.
Đầu hôm, ông ho nhiều hơn. Đếng ho từng đợt rồi co giật. Tiến rùng mình, hình như không ổn rồi. Hơn một lần tay của Tiến đã chạm vào nút gọi y tá nhưng không biết tại sao lại không ấn xuống. Ông Đoài lại co giật, quaằn oại, người của ông như muốn rơi ra khỏi giường. Ngón tay của Tiến lại chạm vào nút gọi khẩn cấp. Mãi cho đến khi tiếng tiếng ú ớ tuyệt vọng của ông Đoài phát ra rồi lịm dần thì như một cái máy Tiến bấm nút liên lục. Nhiều người chạy đến. Sau một hồi xoay sở họ mang ông đi khi trời chưa kịp sáng.
.
Hôm sau cô y tá đến dọn hết những gì còn sót lại; vừa làm việc vừa nói với Tiến: “Dĩ nhiên chiều nay tôi sẽ dời ông sang bên này. Dẫu sao thì nhờ bác Đoài mà ông đã thưởng thức được cuộc sống sinh động bên dưới. Chắc là ông sẽ nhớ thương bác Đoài nhiều lắm. Bác Đoài là một người tốt.”
.
Tiến biết cô y tá nói đúng. Thế nhưng nổi buồn nhớ một người dưng đã chết làm sao so được với niềm vui đang hiện dần ra trước mắt. Tiến đang tiến đến rất gần cái mà Tiến khao khát. Niềm vui đang chực chờ Tiến. Ánh sáng của niềm vui đã ló dạng và càng lúc càng rõ ràng hơn. Hơn nữa, Tiến đã được tháo bỏ cái niềng cổ rồi.
.
Chiều hôm đó, sau khi cô y tá đẩy chiếc giường của Tiến nằm, đặt song song với khung cửa sổ. Lòng rộn rã vì cũng đã đến giờ ‘tường thuật’ hàng ngày, Tiến hồi hộp xoay người hướng mắt xuống với tất cả những dự tưởng về cuộc sống sinh động bên dưới kia. Khi tâm trạng háo hức đã đạt đến cao độ, Tiến nín thở từ từ trịnh trọng mở mắt...
.
Tiến sửng người, bàng hoàng như chợt tỉnh cơn mê. Phía dưới chẳng có gì ngoài tường gạch bê tông của một bãi đậu xe bệnh viện. Hai dòng nước mắt lăn xuống. Thì ra những câu chuyện được giọng nói đều đều mệt nhọc của ông Đoài kể lại suốt thời gian qua chỉ là ‘sáng tác’ để ‘phục vụ’ Tiến. Bây giờ Tiến mới hiểu rõ hơn câu nói của cô y tá: “Dẫu sao thì nhờ bác Đoài mà ông đã thưởng thức được cuộc sống ‘sinh động bên dưới’. Chắc là ông sẽ nhớ thương bác Đoài nhiều lắm...” Những giọt nước mắt vị kỷ này đâu có giá trị vì. Mong sao trong đó có một vài giọt thương tiếc cho người bạn quá cố và một vài giọt ân hận dẫu muộn màng.
.
Đã có bao lần trong cuộc đời, vì lòng ham muốn vị kỷ mà bạn đã trở nên vô tình, lãnh đạm trước những nỗi khổ niềm đau kể cả sự an nguy của người khác. Lòng ham muốn khi đó đã che mờ lương tri và làm vẫn đục tâm hồn trong sáng của bạn. Khi bạn đã bị lòng ham muốn ám ảnh thì tất cả những người trên con đường mà bạn muốn đi đều trở thành ‘vật cản’ dù ham muốn đó thật đơn sơn: được nhìn xuống một khung cửa sổ.
(phóng tác theo Danai Chanchaochai)