Sunday, May 20, 2007

Vần điệu của đức tin


Vần điệu” của đức tin
Thể Như
Từ thuở hồng hoang, lúc mới chớm tách ra khỏi thế giới của con thú, con người có một bước đột biến nổi trội về ý thức. Ý thức về cái ta và thế giới chung quanh. Những ý niệm ta và không phải ta dù thô thiển đến đâu cũng đã giúp cho con người giả từ cái thế giới thuần bản năng của con thú. Sấm chớp làm cho con thú sợ hãi, nhưng sợ hãi rồi thôi. Sấm chớp làm cho con người sợ hãi, nhưng sợ hãi rồi tưởng tượng: Phải có ai đó!!! Có một sức mạnh kinh hồn... nóng bỏng!!! Một nhát rìu mà đánh toạc cả một ngọn cây to lớn kia... Một tia lửa làm nát bét và cháy xém cả một con hưu đang chạy. Chắc chắn đó phải là một án, một quỷ dữ. Thế là con người nguyên thuỷ bắt đầu một niềm tin vào thần quỷ. Một đức tin ấu trĩ có nguồn gốc là sợ hãi và tưởng tượng.

.
Khi đức tin mang vần điệu của sợ hãi và tưởng tượng phát triển đủ mạnh và đủ chi tiết, con người thêu dệt thành hai thế giới: Thế giới con người ở mặt đất và thế giới thần thánh ma quỷ ở trên cao hay lẫn khuất đâu đó. Song song, con người tìm cách lý giải tất cả mọi sự kiện, mọi hiện tượng, mà con người mắt thấy, tai nghe và thân thể cảm nhận được: từ trăng sao, ngày đêm, núi sông, cây cỏ... đến chuyện bệnh tật, chết chóc, ôn dịch, động đất, núi lữa, gió mưa... Quá trình này khiến cho chức năng suy tư kèm theo tưởng tượng của con người phát triển. Con người bắt đầu biết nối kết những sự kiện lại với nhau theo một trật tự nào đó: Sự giận dữ của thần thánh được nối kết với sấm chớp, bão tố. Sự vui vẽ của thần thánh được nối kết với mưa thuận gió hòa. Tình thương yêu của thần thánh được nối kết với sự khoẻ mạnh của con người. Sự thù ghét của thần thánh được nối kết với bệnh tật, ốm đau. Đức tin từ đây thường đi kèm với lý lẽ và sự liên tưởng.

.
Dạng đức tin mang vần điệu của lý lẽ và sự liên tưởng phát triển đến một mức độ nào đó thì dạng thực nghiệm tiền sử của tôn giáo xuất hiện. Đó là vu thuật và cầu cúng tự phát. Tất cả những sắc thái đức tin được đề cập ở trên chẳng những không đối nghịch và triệt tiêu lẫn nhau mà còn hòa quyện với nhau và phát triển. Phát triển đến một mức độ nào đó thì tổ chức phôi thai của tôn giáo tín ngưỡng xuất hiện, song hành đan xen, có khi xung đột, có khi hòa nhập với tổ chức xã hội. Đây là dạng đức tin mang vần điệu của tổ chức và quyền lực.

.
Những hiệu quả, lợi ích mà tổ chức tôn giáo tín ngưỡng đem lại làm phong phú hơn cho cuộc sống vốn tẻ nhạt thời sơ khai, tạo cho con người một dạng tình cảm tôn giáo. Dạng tình cảm này rộng lớn hơn, vượt qua khỏi biên giới của gia đình, của dòng họ và của bộ tộc, tạo nên một sức mạnh sinh tồn đáng kể dựa trên tín thống kết của tình cảm tôn giáo. Như vậy, tình cảm tôn giáo góp phần ổn định xã hội, đánh bại những bộ tộc thiếu đoàn kết để mở mang lãnh thổ và phát triển vững mạnh. Những hiệu quả và lợi ích tích cực như vận cho con người càng khẳng quyết hơn nữa đức tin tôn giáo tín ngưỡng của mình. Từ đó, những thiết chế tôn giáo tín ngưỡng càng lúc càng vững chắc và đầy quyền lực; có những lúc trở thành sơ cứng, nặng nề. Và, hậu quả là tiêu cực xuất hiện: mê tín và tai hại hơn nữa là cuồng tín. (Thật ra mê tín và cuồng tín không phải là ‘đặc sản’ của tôn giáo mà của bất cứ một niềm tin nào không có từ bi và trí tuệ soi sáng, kể cả niềm tin vào khoa học. Và thật ra cuồng tín không đến nỗi tai hại khủng khiếp nếu không có người lợi dụng nó.)

.
Thiện và ác, tốt và xấu là hai phạm trù đối đải bất khả phân ly của cuộc sống con người. Con người vì thế mà sử dụng tôn giáo tín ngưỡng theo hai phạm trù đó. Một mặt là làm cho phong phú, ổn định và thăng hoa cuộc sống của con người. Mặt khác là khai thác khía cạnh mê tín để trục lợi và khai thác mặt cuồng tín để kích động bạo lực. Từ trong bản chất đạo Phật đã có chủ trương rất rõ về tôn giáo tín ngưỡng. Đây là một sợi chỉ đỏ độc đáo trong suốt chiều dài lịch sử của dòng tư tưởng Phật giáo và được khẳng định lần đầu tiên bằng bài kinh Bhaddiya thuộc Tăng Chi Bộ: “Này Bhaddiya, chớ có tin vì nghe truyền thuyết; chớ có tin vì nghe người ta nói; chớ có tin vì được kinh tạng truyền tụng; chớ có tin vì nhân lý luận siêu hình; chớ có tin vì đúng theo một lập trường; chớ có tin vì đánh giá hời hợt những dữ kiện; chớ có tin vì phù hợp với định kiến; chớ có tin vì phát xuất từ nơi có uy quyền... Nhưng này Bhaddiya khi nào ông tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là bất thiện, các pháp này là có tội, các pháp này bị người trí quở trách; các pháp này, nếu thực hiện và chấp nhận đưa đến bất hạnh, đau khổ, thời này Bhaddiya, Ông hãy từ bỏ chúng... Nhưng này Bhaddiya khi nào ông tự mình biết rõ như sau: Các pháp này là thiện, các pháp này là không có tội, các pháp này được người trí tán thán; các pháp này nếu được thực hiện, được chấp nhận đưa đến hạnh phúc, an lạc, thời này Bhaddiya, Ông hãy chứng đạt và an trú...”
[1]

.
Như vậy, đạo Phật đã vượt lên khỏi tất cả những đức tin trên: Đức tin mang vần điệu của sợ hãi và tưởng tượng; đức tin mang vần điệu của lý lẽ và liên tưởng; đức tin mang vần điệu của tổ chức và quyền lực. Hơn nữa đạo Phật đã hình thành nên một dạng đức tin mang sắc thái trí tuệ và từ bi. Tuy nhiên, những nhà truyền bá đạo Phật không thể không tùy duyên vận dụng sắc màu và vần điệu đa dạng của đức tin, đồng thời luôn luôn nhất quán, trung thành với niềm tin chân chính của mình.

.


[1] Kinh Tăng Chi Bộ, Viện Nghiên Cứu Phật Học Việt Nam, 1996: trang 185-190.

No comments: